"Với 
các sự chuyển nhượng lãnh thổ, Thủ tướng không có thẩm quyền quyết định 
mà phải là cơ quan quyền lực tối thượng ở Việt Nam là Quốc hội", Thạc sĩ
 Hoàng Việt, thành viên Quỹ Nghiên cứu biển Đông kiêm cố vấn học thuật 
của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa nhận định.
- Công thư 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng mà Trung Quốc viện 
dẫn cho rằng Việt Nam thừa nhận chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa là của 
Trung Quốc ra đời trong hoàn cảnh nào, thưa ông?
-  Công thư do cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ra đời trong bối 
cảnh sự can thiệp vào Việt Nam của chính phủ Mỹ ngày càng lên cao. Từ 
năm 1956, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở phía Bắc tranh thủ sức mạnh của 
quốc tế, tập trung giải phóng miền Nam. Phong trào vô sản quốc tế lúc 
này cũng có nhiều tình cảm, trợ giúp cho phía Bắc Việt Nam. Trung Quốc 
là một trong những chính quyền thuộc phe Xã hội chủ nghĩa tích cực ủng 
hộ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 
Trong một văn bản còn lưu lại, chính quyền Trung Quốc tuyên bố Việt Nam
 chiến đấu không chỉ bảo vệ lãnh thổ của Việt Nam, mà còn với cả lãnh 
thổ Trung Quốc trước sự đe dọa của Mỹ.
Lúc này, trật tự thế giới chia thành hai phe: Tư bản chủ nghĩa do Mỹ 
đứng đầu và Xã hội chủ nghĩa do Liên Xô, Trung Quốc đứng đầu. Cộng hòa 
nhân dân Trung Hoa được thành lập từ năm 1949 sau khi thắng Quốc Dân 
Đảng buộc họ phải chạy sang Đài Loan. Mao Trạch Đông muốn dùng vũ lực để
 tiêu diệt chính quyền Quốc Dân Đảng nên đã tấn công các đảo Kim Môn, Mã
 Tổ của Đài Loan. 
Để đáp lại yêu cầu được hỗ trợ từ phía chính quyền Quốc Dân Đảng theo 
quy định đã được ký kết trong Hiệp ước Phòng thủ Mỹ - Đài Loan 1954, 
chính quyền tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower đã tăng viện cho các đơn 
vị hải quân Mỹ và lệnh cho tàu chiến hỗ trợ chính quyền Quốc Dân Đảng để
 bảo vệ tuyến tiếp vận đến Kim Môn, Mã Tổ. Đây cũng là lần đầu tiên 
Trung Quốc có xung đột quân sự với hải quân Mỹ. 
Tiếp theo là năm 1958, Hội nghị Công ước Luật biển lần thứ nhất của 
Liên Hợp Quốc nhóm họp, khi các quốc gia đang tranh cãi về vùng lãnh 
hải. Phía Mỹ cho rằng lãnh hải chỉ có chiều rộng 3 hải lý, còn Trung 
Quốc và một số quốc gia khác ủng hộ quan điểm lãnh hải có chiều rộng 12 
hải lý. Vì vậy, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã đưa ra một Tuyên bố 
để khẳng định chiều rộng lãnh hải của Trung Quốc là 12 hải lý. Với tinh 
thần ủng hộ “người anh” của mình, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có thư phúc
 đáp cho việc đồng ý công nhận “hải phận” - tức lãnh hải của Trung Quốc 
là 12 hải lý. 
- Vậy công thư 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng có giá trị pháp lý như thế nào?
- Công thư 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng mang 
một sự cam kết về mặt chính trị hơn là về pháp lý, đây cũng là một hình 
thức mà các nước Xã hội chủ nghĩa thường sử dụng để thể hiện tinh thần 
anh em trong phong trào vô sản quốc tế.
| 
Ông Hoàng Việt là thạc sĩ Luật Quốc tế, Đại học Luật TP HCM, nhà 
nghiên cứu các tranh chấp trên biển Đông, thành viên Quỹ Nghiên cứu biển
 Đông kiêm cố vấn học thuật của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa. Ảnh: NVCC. | 
Về mặt pháp lý, công thư năm 1958 do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký chỉ là 
một tuyên bố đơn phương, nhằm mục đích trả lời Tuyên bố về vùng lãnh hải
 rộng 12 hải lý do Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai. Việc giải 
thích ý chí của một quốc gia trong một tuyên bố đơn phương cần phải được
 diễn giải một cách thận trọng và đối tượng của sự cam kết trong tuyên 
bố đơn phương đó phải được xác định chính xác. 
Các yêu sách về lãnh thổ trong luật quốc tế, cũng như sự từ bỏ 
các yêu sách đó phải được trình bày một cách rõ ràng và không có suy 
diễn. Công thư do cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký không chứa đựng bất kỳ 
sự từ bỏ rõ ràng nào về chủ quyền với Hoàng Sa, Trường Sa. Nội dung công
 thư không thể hiện một sự bắt buộc từ bỏ chủ quyền.
Thêm nữa, với các sự chuyển nhượng lãnh thổ, Thủ tướng Việt Nam 
Dân chủ Cộng hoà không có thẩm quyền quyết định mà phải do cơ quan quyền
 lực tối thượng ở Việt Nam là Quốc hội quyết định.
Cuối cùng, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không thể quyết định hoặc chuyển 
giao một thứ mà mình không có thẩm quyền quản lý theo công pháp quốc tế 
và cũng không kiểm soát nó trong thực tế. Bởi theo các quy định trong 
Hiệp định Genève năm 1954 thì trên lãnh thổ Việt Nam lúc đó tồn tại song
 song hai quốc gia, từ vĩ tuyến 17 trở ra phía Bắc là Việt Nam Dân chủ 
Cộng hoà, từ vĩ tuyến 17 trở vào phía Nam là lãnh thổ thuộc Việt Nam 
Cộng hoà. Hoàng Sa, Trường Sa đều nằm ở phía Nam của vĩ tuyến 17, thuộc 
sự quản lý của Việt Nam Cộng hoà. Những tuyên bố của phía Việt Nam Dân 
chủ Cộng hoà với Hoàng Sa, Trường Sa vào thời điểm này là không có giá 
trị pháp lý.
Tuy nhiên, phía Trung Quốc đã sử dụng công thư này để lu loa rằng Việt 
Nam chính thức công nhận chủ quyền của Trung Quốc với hai quần đảo Hoàng
 Sa và Trường Sa; rằng khi phía Việt Nam bác bỏ điều này thì Việt Nam đã
 vi phạm nguyên tắc Estoppel trong luật quốc tế.
- Estoppel là một nguyên tắc theo đó một quốc gia không có quyền 
nói hoặc hoạt động ngược lại với những gì mình đã nói hoặc hoạt động 
trước kia. Trung Quốc dùng estoppel để nguỵ biện như thế nào dựa trên 
công hàm 1958?
- Estoppel là một nguyên tắc bắt đầu từ trong nội luật nước Anh, 
sau này được phát triển và công nhận trong luật quốc tế liên quan đến 
lãnh thổ. Tuy nhiên, hiểu về Estoppel là một điều phức tạp, nó không đơn
 giản như các suy luận thông thường là một quốc gia cứ phát biểu một 
điều gì là bị ràng buộc pháp lý bởi Estoppel mà phải đáp ứng một số yếu 
tố nhất định. Tuyên bố về một lãnh thổ sẽ bị ràng buộc bởi Estoppel, 
nhưng như TS Từ Đặng Minh Thu đã phân tích: một tuyên bố bị ràng buộc 
bởi Estoppel phải đáp ứng các điều kiện:
Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho
 quốc gia phát biểu và phải được phát biểu một cách rõ ràng, công khai.
Quốc gia nại “Estoppel” phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời
 tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó,
 hoặc không hoạt động. Yếu tố này trong luật quốc nội Anh - Mỹ gọi là 
“reliance”.
Quốc gia nại “Estoppel” cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên
 bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng 
lợi khi đưa ra tuyên bố đó.
Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và trường kỳ.
Như vậy, xem xét các điều kiện trên, ta thấy công thư của cố Thủ tướng 
Phạm Văn Đồng khó mà đáp ứng được các yêu cầu để trở thành một Estoppel. Vì thế nó chỉ nên được coi như một lời hứa vô thưởng vô phạt, không thể bị ràng buộc về mặt pháp lý.
Việt Nam có nhiều bằng chứng pháp lý - lịch sử để khẳng định chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Vì
 không đủ sức mạnh thuyết phục trong việc cung cấp bằng chứng chứng minh
 chủ quyền với Hoàng Sa, Trường Sa nên phía Trung Quốc hay dùng biện 
pháp ngụy biện để tuyên truyền theo cách có lợi cho họ. Nếu phía Trung 
Quốc chắc chắn về lập luận cùng các bằng chứng để chứng minh chủ quyền 
của họ trên Hoàng Sa, Trường Sa thì tại sao Trung Quốc không dám cùng 
Việt Nam đưa vấn đề tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa ra một tòa án quốc tế 
để phân xử.
Việt Hoàng