Theo QĐND
QĐND
- Nhân sự kiện Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 tại
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở Biển Đông, phóng
viên Báo Quân đội nhân dân đã phỏng vấn Giáo sư Trần Văn Thọ, Đại học
Waseda, Tô-ki-ô (Nhật Bản), người có sáng kiến tổ chức Đối thoại trí
thức Việt-Trung năm 2012. Tại cuộc đối thoại khi đó, các trí thức đã
cùng nhìn nhận lại mối quan hệ Việt-Trung trong suốt chiều dài lịch sử,
đa số đều nỗ lực làm rõ những mặt tích cực và tìm những khả năng mới để
góp phần thúc đẩy quan hệ giữa hai nước. Nhưng riêng về vấn đề Biển
Đông, rất tiếc phía Trung Quốc có vẻ muốn né tránh.
“Tương kính” phải bén rễ trong lòng các tầng lớp dân chúng
- Vì sao giáo sư có ý tưởng tổ chức Đối thoại trí thức Việt-Trung vào năm 2012 tại Tô-ki-ô (Nhật Bản)?
-
Từ năm 2007, tình hình ở Biển Đông bắt đầu phức tạp tuy chưa đến mức
trầm trọng như bây giờ. Ai cũng có thể nhận thấy, căng thẳng ở Biển Đông
rất bất lợi cho cả hai nước, đặc biệt là đối với Việt Nam
chúng ta. Ngoài tình hình Biển Đông, còn nhiều vấn đề do lịch sử để
lại, không dễ giải quyết một sớm một chiều. Vì lợi ích lâu dài, Việt Nam
phải xây dựng quan hệ hữu nghị với nước láng giềng Trung Quốc trên cơ
sở tương kính, tin tưởng lẫn nhau. Đặc biệt, sự tương kính, hiểu biết và
tin tưởng lẫn nhau phải bén rễ trong lòng của các tầng lớp dân chúng.
Giáo sư Trần Văn Thọ. Ảnh: Tư liệu
|
Từ
nhận định này, tôi chợt nghĩ đến sự cần thiết phải có đối thoại giữa
trí thức Việt Nam và Trung Quốc với hy vọng qua các cuộc đối thoại, trí
thức hai nước sẽ hiểu biết, tin tưởng nhau hơn và họ sẽ tác động tích
cực đến các tầng lớp dân chúng khác. Tôi nghĩ, đã gọi là trí thức thì
ngoài trình độ hiểu biết phải khách quan, khoa học, trung thực và có
tinh thần xây dựng, có trách nhiệm với xã hội. Do đó, đối thoại giữa các
trí thức hy vọng sẽ mang lại kết quả tốt.
- Vậy trong đối thoại, học giả hai nước đã nhất trí được những điểm gì, thưa Giáo sư?
-
Những vấn đề liên quan đến lịch sử xa xưa, cụ thể là từ thế kỷ 19 trở
về trước thì hai bên tương đối nhất trí. Đặc biệt, học giả của cả Việt
Nam và Trung Quốc có vẻ nhất trí ở tư tưởng của Mạnh Tử về chữ “nhân” và
chữ “trí”. Cụ thể, nước lớn phải lấy chữ "nhân" để đối xử với nước nhỏ,
với thái độ nhường nhịn, không hẹp hòi, không tìm cách áp đặt. Nước nhỏ
thì dùng "trí" để giao hảo với nước lớn, tôn trọng nước lớn, có thể xem
nước lớn là đàn anh nhưng vẫn giữ tinh thần độc lập, có bản sắc riêng
và phải có những lãnh đạo tài trí mới tạo được tư thế độc lập đó. Từ
xưa, thái độ ấy của nước lớn và nước nhỏ là điều kiện để thiên hạ thái
bình và để có quan hệ hữu hảo giữa các nước.
Dĩ
nhiên ngày nay, không nên suy nghĩ theo khung khái niệm nước lớn, nước
nhỏ nhưng tinh thần của chữ “nhân”, chữ “trí” trong quan hệ giữa các
nước láng giềng vẫn còn giá trị và cần đề cao.
Học giả Việt Nam đưa báo cáo thuyết phục
- Các học giả Việt Nam đã đưa ra những lập luận gì đáng chú ý tại đối thoại?
-
Tại Hội nghị trù bị năm 2011 chuẩn bị cho đối thoại chính thức năm
2012, Giáo sư Đỗ Tiến Sâm (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) cho
rằng, do yếu tố lịch sử và địa lý, mọi người Việt Nam đều mong muốn được
sống hòa bình với nước láng giềng phương Bắc nhưng luôn có tinh thần
cảnh giác cao đối với các chính sách và hành động của Trung Quốc. Theo
Giáo sư Sâm, mặc dù khi bình thường hóa quan hệ năm 1991, lãnh đạo hai
nước đã chủ trương “Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”, sau đó, lần
lượt đề ra “Phương châm 16 chữ”, “Tinh thần 4 tốt” và sau là nâng tầm
quan hệ lên “Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”, nhưng sự tin cậy lẫn
nhau chưa tốt khi nhiều sự kiện trên thực tế đi ngược lại các phương
châm ấy, đặc biệt là các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông gây nên
bức xúc trong dư luận tại Việt Nam.
Tại
đối thoại, về vấn đề Biển Đông, Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc (Đại học Quốc
gia Hà Nội) đã đưa bản báo cáo rất có sức thuyết phục và có nhiều điểm
mới lạ đối với tôi. Tác giả còn chuẩn bị kèm nhiều bản đồ chụp lại từ
các tư liệu trong nghiên cứu của các học giả phương Tây. Trong đó, tôi
đặc biệt chú ý tới mấy điểm sau: Thứ nhất, người phương Tây đã xác định
Hoàng Sa là của Chiêm Thành. Nhiều bản đồ hàng hải phương Tây đánh dấu ở
khu vực quần đảo Hoàng Sa cái tên rất có ý nghĩa là Baxos de Chapar
(bãi đá ngầm Chăm-pa) và Pulo Capaa (đảo của Chăm-pa). Nhiều bản đồ
phương Tây cuối thế kỷ 16 đã vẽ rõ và chính xác các quần đảo Paracels
(Hoàng Sa) và khu vực duyên hải miền Trung tương đương với tỉnh Quảng
Ngãi sau này là Costa da Pracel (Bờ biển Hoàng Sa).
Thứ
hai, địa giới Đại Việt đến trước thời điểm quân Minh xâm lăng đã được
mở rộng đến Quảng Ngãi. Năm 1490, Lê Thánh Tông cho hoàn thành bản đồ
toàn quốc trong đó cho đánh dấu vị trí của Bãi Cát Vàng. Chúa Nguyễn
Phúc Nguyên (1614-1635) đẩy mạnh giao thương quốc tế, phát triển thương
cảng Hội An, mở rộng lãnh thổ xuống miền Đông Nam Bộ, đặt ra đội Hoàng
Sa khai thác và quản lý khu vực Bãi Cát Vàng và một phần Bãi Cát Dài ở
phía Nam. Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) đặt ra đội Bắc Hải (dưới sự
kiểm quản của Đội Hoàng Sa) có trách nhiệm khai thác hóa vật, kiểm tra,
kiểm soát thực thi chủ quyền.
Thứ
ba, năm 1803, Gia Long lập đội Hoàng Sa có chức năng khai thác và quản
lý đảo này. Liên tục trong các năm 1815 và 1816, vua sai đội này ra đảo
Hoàng Sa thăm dò đường biển. Hoạt động của vua Gia Long được nhiều người
phương Tây chứng kiến và đề cao. Chẳng hạn, trong hồi ký của Giăng
Báp-ti-xtê Se-nhô (Jean Baptiste Chaigneau) (1769-1825) nói là đến năm
1816, vua Gia Long đã quản lý hòn đảo này; Giám mục Giang Lu-ít Ta-bớt
(Jean Louis Taberd) thì cho rằng, người Đàng Trong gọi khu vực Paracels
là Cồn Vàng, khẳng định Paracels thuộc An Nam.
Đối
thoại trí thức Việt-Trung lần đầu tiên diễn ra từ ngày 1 đến 2-6-2012
tại Tô-ki-ô (Nhật Bản). Trước đó, tháng 7-2011, Hội nghị trù bị với quy
mô nhỏ đã diễn ra nhằm chuẩn bị cho đối thoại chính thức. Để cuộc đối
thoại phong phú, ban tổ chức có mời thêm hai giáo sư Nhật Bản, một
chuyên về lịch sử Việt Nam và một chuyên về lịch sử Trung Quốc.
|
MỸ HẠNH (thực hiện)
(Còn nữa)