Góp ý của
Tạ Văn Tài , luật sư tại Mỹ và nguyên giảng viên và
đương kim nhân viên nghiên cứu Harvard Law School.
Trước
khi đi vào chi tiết các biện pháp Việt Nam có thể sử
dụng như đối sách, mà chúng tôi liệt kê dưới đề
mục 2 câu hỏi sau, thì cần ôn lại những lợi ích hay
quyền lợi gì mà Công Ưóc Liên Hiệp Quốc về Luật
Biển (United Nations Convention on the Law of the Sea UNCLOS) dành
cho các quốc gia hôị viên , như Việt Nam.
Có hai loại lợi ích
hay quyền lợi quốc gia của Việt Nam tại Biển Đông:
(a) chủ quyền đất đai (territorial sovereignty) trên nhiều
đảo và đá tại hai vùng quần đảo Hòang Sa và Trường
Sa, mà Việt Nam tuyên bố và thực thi với sự chiếm hữu
và quản lý trong quá khứ, theo đúng luật quốc tế
truyền thống đã có mấy trăm năm; và (b) lợi ích hay
quyền đối với những vùng nước và đáy biển dưới
mặt nước tại Biển Đông, chiếu theo Công Ước Liên
Hợp Quốc về Luật Biển (United Nations Convention on the Law
of the Sea, UNCLOS) năm 1982, gồm có quyền chủ tể
(sovereign rights) khai thác tài nguyên sinh vật như cá biển
và không phải sinh vật như quặng mỏ, kim loại hay dầu
khí ở đáy biển, trong một vùng dưới mặt nước gọi
là Vùng Đặc quyền Kinh tế (Exclusive Economic Zone, EEZ)
rộng 200 hải lý tính từ mực nước
thuỷ triều thấp nhất (gọi là đường cơ sỏ) chạy ra
ngòai biển tới 200 hải lý (điều 56 và 57 UNCLOS), và
trong Vùng Thềm Lục Địa (Continenal Shelf) tức mặt đáy
biển và đất dưới đáy biển đi ra tới bờ của lục
địa (continental margin) hay tới khỏang cách 200 hải lý
tính từ đường cơ sở, khi bờ lục địa không xa tới
mức đó (điều 76 và 77 UNCLOS); hơn nữa, cần nhấn mạnh
là theo UNCLOS,các quyền chủ tể trên trong vùng EEZ và
Thềm Lục địa của Việt Nam là chuyên độc (exclusive)
của quốc gia cận duyên, cho nên Việt Nam trong vùng EEZ,có
chủ quyền xây các kiến trúc nhân tạo trên các đá
thành những đảo nhân tạo, nghiên cứu biển, quy định
bảo vệ môi sinh, miễn là tôn trọng quyền các quốc gia
khác về tự do lưu thông hàng hải, và đặt giây cáp và
ống dẫn dầu khí của các nước khác (điều 56,58),và
trong Thềm Lục Địa, Việt nam cũng đương nhiên có quyền
chuyên độc khai thác tài nguyên thiên nhiên mà không cần
tuyên bố hay chiếm hữu, và các quốc gia khác không thể
có các hoạt động khai thác tài nguyên mà không có sự
minh thị đồng ý của Việt Nam (điều 77).Khi bàn luận
về tranh chấp với Trung quốc, ta nên nhớ luật quốc tế
đã nói chắc chắn về các quyền của Việt Nam như đinh
đóng cột.
Khi đem gìan khoan dến
vị trí giữa hai lô dầu 142 và 143 trong vùng Đặc quyền
Kinh tế Việt Nam (EEZVN) , như ghi trong bản đồ trên, thì
trái với sự bàn luận cuộc một số người, Trung quốc
không dùng cái Đường Lượi Bò hay Chín Đọan
(Nine-dotted Line), vốn không có thể biện hộ được và
bị tất cả các nước và học gỉa chất vấn, làm căn
bản cho sự xâm lấn.
a) Bộ Ngọai giao Trung
quốc đã nham hiểm mà tránh viện dẫn cái dường Lưỡi
Bò vô duyên đó, mà dùng đến căn bản vùng EEZ của
Trung quốc, để nói là gìan khoan “đặt hòan tòan trong
vùng nước của các đảo Paracels của Trung quốc”
(placed completely within the waters of China's Paracels”) ám chỉ
trong vòng 200 hải lý của EEZ và thềm lục địa của
Paracels, do Trung quốc quản lý (nhưng Việt Nam vẫn liên
tục đòi) , mà UNCLOS sẽ công nhận cho Paracels nếu hội
đủ diền kiện. Điền kiện mà Trung quốc gỉa định đã
có rồi, là có đảo nào đó trong Paracels, như Tri Tôn
cách giàn khoan 17 miles, hay đảo Phú Lâm (Woody hay
Yongxing), đã có điều kiện quy định trong UNCLOS cho tính
cách môt hòn dảo (island) là con người sinh sống với
nền kinh tế tự túc (nước ngọt và thực phẩm trồng
tại chỗ) khi mỏm dất hay đá đó còn trong trạng thái
thiên nhiên [Còn nếu không có mỏm đất hay dá nào trong
Paracels đủ điền kiện là đảo , thì chúng chỉ là đá
(reef) theo UNCLOS và chúng chỉ có 12 hải lý của lãnh
hải/territorial sea.] Việc của Phi kiện Tàu,
sau khi chịu đựng thương lưọng với Tàu 17 năm, về
việc Tàu chiếm đá ngầm rất xa Trung quốc trong vùng
Kinh tế dặc quyền / EEZ của Phi, thì dễ
hơn vụ cuả VN, khó
hơn, vì VN phải làm việc kiện Tàu
đã vô trong vùng EEZ VN, mà vùng này trùng lấp với vùng
EEZ của Tàu, hay ít ra là vùng hải phận territorial sea của
Hòang sa mà nay Tàu nói đang thuộc quyền quản lý của
họ.
b) Trung quốc cũng
ám chỉ là gìan khoan cách đảo Hải Nam 180 hải lý về
phiá nam (cách dảo Ly Sơn của Viêt Nam chứng 120 hải lý
vế phiá đông).
Những nhận định và đề nghị nêu ra
sau đây hầu hết là dựa trên căn bản luật pháp, tức
là khí giới của kẻ yếu, nhưng là “lạt mềm buộc
chặt”, chứ còn võ lực chống Tàu thì nó có cớ dánh
lớn, tàn phá VN và chiếm thêm hải đảo hay đất (trừ
cách làm du kích, quấy rầy việc tiếp liệu giàn khoan,
hay phá họai gián tiếp khác, làm cho nó khó tiến hành
được, có thể làm đến đâu, thì bàn sau )
1)
Câu hỏi đầu tiên được nêu ra là Việt Nam có
thể kiện trước tòa án quốc tế nào không?
a)
Luận cứ (a) của Trung quốc, dùng Paracels mà đòi quyền
khai thác cho giàn khoan phải dược bác khước bằng hai
vụ kiện trong đó Việt Nam phải trình hồ sơ vế hai
điểm : (i) Paracels không phải của Trung quốc mà của
Việt Nam: (ii) Paracels không có mỏm đá nào, kể cả
Woody/Yongxing , xứng dáng gọi là đảo/island, tức có
người sống trong nền kinh tế tự túc được trong trạng
thái nguyên thuỷ sơ khai, mà tòan là đá/reef.
Vụ
kiện về chủ quyến đất đai (territorial sovereignty) trên
Paracels là thuộc luật quốc tế cổ truyến (traditional
international law), theo đó VN phải minh chứng theo nguyên
tắc luật quôc tế là một chính
quyền muốn xác nhận chủ quyền phải có sự liên tục
hành sử chủ quyền trong hòa bình, nói rõ ý định làm
chủ, và nếu bị cưỡng chiếm thì phải phản đối
chính quyền mới cướp bằng võ lực đất của mình để
ngăn cản chính quyền mới này thủ đắc chủ quyền
bằng sự hành sử chủ quyền liên tục.
Xét
các bằng chứng lịch sử về chủ quyền của Việt Nam
theo luật quốc tế này, thì Việt
Nam đã xác nhận và hành sử chủ quyền trên Hoàng sa và
Trường Sa (tuy phạm vi hành
sử ở Trường sa thì chưa xác định tới bao nhiêu đảo);
và khi Trung Quốc chiếm
Hoàng Sa bằng võ lực năm 1974 và Việt
Nam Cộng Hòa phản đối, sau đó Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hoà (nay là Cộng Hoà Xã Hội
Việt Nam) – kế quyền của
Việt Nam Cộng Hòa theo nguyên tắc thừa kế quốc gia
(succession of state) – cũng
phản đối vụ Trung Quốc dùng võ lực chiếm Hoàng Sa và
rồi phản đối nhiều lần việc Trung Quốc dùng võ lực
chiếm một số đảo ở Trường Sa năm 1988
(gây thương vong cho nhiều lính hải quân Việt Nam) và
các năm sau đó, thì chủ quyền Việt Nam trên Hoàng Sa và
Trường Sa không thể bị coi là đã sói mòn vì thiếu sự
tuyên bố và hành sử chủ quyền.
Chúng
tôi không đủ trang giấy trong bài ngắn này để trình
bày hết các bằng chứng lịch sử VN xác lập chủ
quyền đất đai trên các đảo Paracels và Spratleys ở
đây.
Trong
một video trên Internet và báo không chính thức như Hoàn
Cầu của Trung quốc để biện minh cho vị trí giàn
khoan, nguời Tàu cũng viện đến công hàm Phạm văn Đồng
1958 mà họ cho là đã nhường Paracels và Spratleys cho
Trung quốc. Chúng tôi có đủ luận cứ quốc tê công
pháp bác khước điểm này, ghi trong phần phụ lục ở
cuối. Phải dùng luận cứ này trong dư luận quốc tế
và trong
vụ kiện về chủ quyền đất đai (territorial sovereignty)
trên Paracels tại tòa án có thẩm quyến về việc này là
Tòa Án Công Lý Quốc Tế (International Court of Justice,
ICJ).
Rất
tiếc là trong hiện
trạng luật quốc tế, không thể lôi Trung quốc ra tòa
ICJ được (việc
kiện đó chắc phải đợi sự đồng ý của một chế
độ mới ở Trung quốc) như một số kiến nghị của
các nhà trí thức và họat dộng ở VN yêu cầu chính
phủ, cũng như có sự trả lời là “đang suy nghĩ” của
luật sư của Bộ Ngoại Giao hay Học Viện Ngọai giao, vì
chắc chắng là Tàu sẽ không đồng ý ra tòa , theo nguyên
tắc optional clause là một quốc gia có đồng ý ra tòa
mới phải ra tòa.
b)
Chúng tôi nghĩ là
trước Tòa án Trọng Tài Luât Biển,VN
có thể bác
khước cả luận cứ (b) về
khỏang
cách đảo Hải Nam tới giàn khoan chỉ có 180 miles
, cùng
với
một phần của luận cứ (a) vế tư cách đảo
/island của Paracels—trước Tòa án Trọng Tài Luât Biển,
là tòa mà VN
có thể lôi Trung quốc ra
, theo thủ tục bó buộc trong UNCLOS.
Mục
2
CÁC
THỦ TỤC BẮT BUỘC
DẪN
TỚI CÁC QUYẾT ĐỊNH BẮT BUỘC
ĐIỀU
286. Phạm vi áp dụng mục này
Với
điều kiện tuân thủ Mục 3, mọi tranh chấp liên
quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước khi
không được giải quyết bằng cách áp dụng Mục 1, theo
yêu cầu của một bên tranh chấp, đều được đưa ra
trước tòa án có thẩm quyền theo mục này.
ĐIỀU
288. Thẩm quyền
1.
Một tòa án đã nêu ở Điều 287 có thẩm quyền xét xử
bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích
hay áp dụng Công ước đã được đưa ra cho mình theo
đúng phần này.
2.
Một tòa án nói ở Điều 287 cũng có thẩm quyền xét xử
bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích
hay áp dụng một điều ước quốc tế có liên quan đến
các mục đích của Công ước và đã được đưa ra cho
mình theo đúng điều ước này.
Chúng
tôi nghĩ rằng VN có thể lôi Trung quốc
ra Tòa án Trọng Tài luật Biển , mà Trung quốc không thể
dùng sự bảo lưu (reservation) khi ký Công Ước, là không
nhận thủ tực bó buộc cho các tranh luận việc trùng lấp
của các vùng EEZ giữa VN và Trung quốc, như nói
ở điểm (b) , giàn khoan ở chỗ trùng đè của hai ÊEZ
tình từ bờ biển VN và từ Hải Nam, vì rằng Việt
Nam cũng có thể xin Toà Trọng Tài xử về sea boundary mặc
dầu Tàu có bảo lưu/reservation khi gia nhập Công Ước về
vấn dề biên giới biển/sea boundary hay vịnh lịch
sử/historical bays, chiếu điều 298 đọan 4 dành quyến cho
quôc gia duyên hải/coastal state, có thể đối lập “4.
Nếu một quốc gia thành viên đã ra một tuyên bố theo
khoản 1, điểm a, thì bất kỳ quốc gia thành viên nào
khác cũng có thể đưa ra mọi tranh chấp giữa quốc gia
đó với quốc gia đã ra tuyên bố và nằm trong một loại
tranh chấp đã bị loại trừ, ra giải quyết theo thủ tục
được định rõ trong tuyên bố này.
“.
Bây
giờ nói về điểm (b),
vị
trí giàn khoan ở nơi trùng lấp giữa EEZVN và EEZ Trung
quốc tính từ Hài nam: cà hai phía bờ biển VN và Trung
quốc dều có thể phát sinh 2 EEZ và 2 Thềm Lục Địa.
Nói cho VN, chúng tôi có thể biện luận theo luật là :
vị trí giàn khoan ở trong Thềm Lục Địa nới rộng của
VN, và hơn nữa, ở hẳn sang phía VN nếu cần phải thương
lượng theo Công Ươc để tìm ra một đưòng trung tuyến
(median line) giũa hai Thềm Lục Địa—như vẽ trong hình
trên. Có thể thương lượng không xong, thì biện minh cho
VN như vậy khi xin Tòa Trọng Tài gỉải thích Công ước.
Trước
Toà Trọng Tài, mục đích quan trọng nhất là xin một bản
án gỉai thích (declaratory judgement)
gỉai thích và áp dụng Công Ước về vấn đề không có
mỏm đá, đât nào trong Paracels, kể cả Woody/Yongxing ,
xứng đáng là đảo (island) mà người ở dược trong một
nền kinh tế tự túc, trong trạng thái thiên nhiên trước
khi Trung quốc xây các tòa nhà ở được, phi trường,
cảng, để tiếp tế, và nhà mày lọc nước ngọt.
Cũng
xin Tòa gỉai thích việc Trung quốc, một quốc gia duyên
hải /coastal state, đã đơn phương ngăn chặn tự do lưu
thông ,với vòng vây rộng lớn các tầu chiến và hải
giám quanh giàn khoan, chiều điều 297 đọan 1a :
1.
Các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp
dụng Công ước về việc thi hành các quyền thuộc chủ
quyền hay quyền tài phán của quốc gia ven biển như đã
được trù định trong Công ước, phải
được
xét theo các thủ tục giải quyết đã được trù định
ở Mục 2 trong các trường hợp sau đây:
a)
Khi thấy rằng quốc gia ven biển đã không tuân theo Công
ước liên quan đến tự do và quyền hàng hải, hàng không
hoặc tự do và quyền đặt các dây cáp và ống dẫn
ngầm, cũng như đến việc sử dụng biển vào các mục
đích
khác mà quốc tế thừa nhận là chính đã nêu ở Điều
58;
Trong
khi chờ đợi các cơ quan tài phán gỉai quyết, VN chỉ
giới hạn họat động vào các lô 118 và 119, thì Trung
quốc—đáng lẽ phải theo đọan 3 các điều 74 và 83, về
các bước đi thương lượng gỉai quyết bất đồng với
VN về EEZ và thềm lục địa, phải tự chế trong tinh
thần hiểu biết và cộng tác (understanding and cooperation)
kèm theo những biện pháp tạm thời (provisional measures)
để không hại đến thỏa ước sau cùng--- thì Trung
quốc lấn lưót, hung hăng. Hàng động Trung quốc cũng là
vi phạm Tuyên Bố Ứng xử của ASEAN.
Trong
việc kiện Trung quốc, VN có thể theo gương Phi luật Tân,
nhờ các văn phòng luật sư quốc té giỏi, như Cotvington
& Burling, khi xưa đã giúp VN thời hủ tướng Võ Văn
Kiệt, cũng trong vấn đề Biển Đông (chúng tôi có thể
liên lạc qua một luật sư của họ là LS Thomas Johnson có
đi dự Hội nghị 2012 về dầu khí ở Houston và chủ tọa
phiên họp về boundary dispute—gs Nguyễn Hồng Thao, đại
diện VN, có trả lởi một câu ông hỏi về joint
development.)
2) Nếu tình thề
tiếp tục căng thẳng thì VN phải dùng thêm các biện
pháp chính tri , ngọai giao và quân sụ. Vai trò cộng đồng
quốc tế.
Công
ước luôn đòi hỏi các bên thương nghị và cả hòa
gỉai nữa trước khi đem ra các thủ tục bó buộc. Vì
thế các cuộc thương nghị ngọai giao song phương, đa
phương phải luôn có. Nếu thương nghị song phương mà
bá quyền lấn áp, thì phải dùng thương nghị đa phương
qua ASEAN và , nhất là nếu các nước nhỏ quá ngại
nghênh Trung quốc, cả sự can thiệp của các nước lớn
có quyền lợi ở Biển Đông như Nhật, Úc, Nga, Ấn và
nhất là Mỹ.
Một
nền ngọai giao đa phương đã có thể làm chùn bớt
hành vi hung hăng của Trung quốc, ngay từ khi trong chuyến
du hành của Thủ Tướng Việt Nam qua Mỹ năm 2008: lúc
đó, Tổng Thống Bush đã cam kết bảo đảm cho sự toàn
vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Thông cáo chung Mỹ Việt
"nhắc
lại sự ủng hộ của chính phủ Hoa Kỳ đối với Việt
Nam về chủ quyền quốc gia, an ninh và toàn vẹn lãnh
thổ"
và nói đến nhu cầu "củng
cố đối thoại cấp cao" và
ủng hộ
"thành lập các cuộc họp hoạch định chính sách
về chính trị, quốc phòng để có các trao đổi thường
xuyên và sâu hơn về các vấn đề chiến lược và an
ninh". Nhưng
rồi Việt nam vẫn chậm chạp trong việc xích lại gần
Tây Phương.
Năm
2010 mới có một sự đột biến quan trọng. Hồi hạ
tuần tháng 7 năm 2010, Ngoại trưởng Clinton tuyên bố
tại Hà Nội rằng Hoa Kỳ xem Việt Nam “không
những thật sự là một quốc gia quan trọng mà còn là
một bộ phận của chiến lược nhắm tăng cường cam
kết của người Mỹ trong khu vực Á châu Thái bình
dương, đặc biệt là trong vùng Đông Nam Á.”
Khi phát biểu tại hội nghị của Diễn đàn Khu vực
ASEAN ở Hà Nội, bà Clinton còn nói rằng Hoa
Kỳ xem việc giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền
ở biển Nam Trung Hoa (Việt Nam gọi là Biển Đông) bằng
đường lối đa phương, theo luật quốc tế, mà không
đe dọa hay dùng võ lực, là một “quyền lợi quốc
gia”
của
Mỹ. Những
phát biểu này đã khiến cho giới lãnh đạo Trung Quốc
phật lòng. Báo cáo Chính trị cho Đại Hội Đảng Việt
Nam 2011 cho ghi rõ mục tiêu tăng cường hợp tác với
các nước chung quanh Biển Đông và Thái Bình Dương:
"giải
quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh
thổ, việc xác định ranh giới biển và thềm lục địa
với các nước liên quan trên cơ sở những nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử
của khu vực; làm tốt công tác quản lý biên giới, xây
dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác
và cùng phát triển. Củng cố, phát triển quan
hệ
hợp tác, hữu nghị truyền thống với các nước láng
giềng có chung biên giới. Chủ động, tích cực và có
trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN
vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác,
tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các khuôn khổ
hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương."
Theo giáo sư Úc Carl
Thayer chuyên nghiên cứu về Việt Nam, thì lãnh đạo
Việt Nam có hai khuynh hướng: một muốn mở rộng quan
hệ quốc tế, liên hệ với nhiều quốc gia; một muốn
nể nang, liên hệ chặt chẽ với Trung Quốc hơn nước
khác (gọi là nhất biên đảo), nhưng cũng theo GS Thayer,
trước khuynh hướng chống Trung Quốc của nhân dân,
nhóm thân Trung Quốc này hình như cũng phải đồng ý
phải tìm con đuờng quốc phòng khác dựa vào quan hệ
đa phương, không thể chỉ dựa hay tin vào Trung Quốc.
Cơ
chế các tổ chức quốc tế hòan vũ (global international
organizations) là diên đàn nêu sự bắt nạt củaTrung
quốc trước dư luận quốc tế và có thể đi đến
những nghị quyết hãm bớt sự hung hăng của Trung quốc.
Sự hung hăng đe dọa trong video trên Internet nói về công
hàm P V Đồng có nói là: chỉ cần một vài giờ là
đánh tan hải quân VN; và có tin mấy hôm này , tháng
5,ngày 20, là Trung quốc dồn quân đến biên giới Việt
Trung. Nên đưa
vấn đế ra United Nations General Assembly hay ngay cả
Security Council(SC) . Một nghị quyết của UN General
Assembly/Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc là áp lực
công luận quốc tế, có thể làm chùn bước Trung quốc.
Tuy ở UN Security Council/Hội Đồng Bảo An , khi lấy
quyết định có thể vấp vào phiếu phủ quyêt của
Trung quốc, nhưng VN vần cần đưa ra hay nhờ cường
quốc dưa ra,, vì đó là thủ tục có thế làm bất cứ
khi nào có đe dọa hòa bình và an ninh tuốc tế/threat to
international peace and security, như Tàu đem chiến hạm đe
dọa và dùng nhiều đòn võ lực với hải giám và dân
chài VN, như vậy để tạo dư luận quốc tế có lợi
cho VN.
Tuy
nhiên chính phủ VN chắc cũng biết là giàn khoan cần tiếp
tế thường xuyên, đào giếng dẫu cần nhiếu công ty
quốc tế cộng tác trong các vấn đế kỹ thuật, mà
Trung quốc không có đủ kỹ thuật cao (thí dụ ngay trong
việc thử nghiệm các bùn hút lên thì phải đem về các
phòng thí nghiệm cao cấp xem có dầu tốt và đủ để bõ
khai thác được , hay không ), cho nên có thể Trung quốc
hung hăng muốn dùng giàn khoan để gìanh chủ quyền, nhưng
rồi thấy tốn kém vô ích , phải rút đi. Đó là chưa kể
nguy cơ bị phá hoại bởi các phần tử quốc tế không
ưa Trung quốc, họ chỉ cần có người nhái , hay hành vi
cảm tử/ kamikaze khác, phá đổ một trong 4 chân của giàn
khoan, thì giàn khoan chìm, và Trung quốc mất cả tỷ Mỹ
kim. Chúng tôi là luật sư, chủ trương dùng luật là
chính, vả lại ở Mỹ thì phải theo luật Neutrality Act,
không cho phép người Mỹ dùng biện pháp quân sự nào đối
với một quốc gia có bang giao bình thường với Mỹ, như
Trung quốc, nhưng chúng tôi nói lên nguy cơ có thể kẻ
phá họai giàn khoan, với tư cách học gỉa ước tính
tình hình.
PHỤ
LỤC
Luận
cứ của Trung Quốc khi họ viện dẫn Công hàm năm 1958
của ông Phạm Văn Đồng để nói rằng ông Đồng đã ra
công hàm ủng hộ tuyên bố của Thủ tướng Trung quốc
Chu Ân Lai , do đó công nhận chủ quyền Trung quốc trên
các lãnh hải, kể cả lãnh hải tính từ các đảo Hoàng
Sa và Trường Sa, vàN
áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các
hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất
liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo
phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần
đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các
đảo khác thuộc Trung Quốc.
2-Phần
biển 12
hải lý
tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung
Quốc
3-Nếu
không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa, tất cả máy bay nước ngoài và tàu bè quân sự
không được xâm nhập hải
phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất
cứ tàu bè nước ngoài nào di chuyển trong hải phận
Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ
của Chính Phủ Cộnsg hòa Nhân dân Trung Hoa.”
Ông
Phạm Văn Đồng gửi bức công hàm cho Ông Chu Ân Lai
nguyên văn như sau:
“Thưa đồng chí Tổng lý- Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ : Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
“Thưa đồng chí Tổng lý- Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ : Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết
định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có
trách nhiệm triệt để tôn
trọng hải phận 12 hải lý của
Trung Quốc.
Nên
ghi chú ngay rằng ông Đồng chỉ nói đến hải phận 12
hải lý mà không nói về đảo, đất. Nhưng chúng tôi xin
đi vào chi tiết 2 luận cứ pháp lý để bác luận cứ
của Trung Quốc về Công hàm Phạm Văn Đồng như sau :
(a)
Thứ nhất, và quan trọng nhất, Hiệp Định Geneva trao
quyền quản lý hành chánh Hoàng Sa và Trường Sa, đều ở
phía nam vĩ tuyến 17, cho chính phủ Miền Nam Việt Nam ,
tức Việt Nam Cộng Hòa (VHCH), ở phía nam vĩ tuyến đó,
cho nên các hành vi xác lập và hành xử chủ quyền về
Hoàng Sa và Trường Sa phải thuộc thẩm quyền Việt Nam
Cộng Hòa, và chính phủ này cũng như hải quân của họ
đã mạnh mẽ xác nhận chủ quyền Việt Nam ở các hải
đảo trong và sau biến cố hải chiến 1974, còn ông Đồng,
đại diện miền Bắc Việt Nam, tức Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa (VNDCCH) lúc đó, không có thẩm quyền hay không
có ý định tuyên bố gì về chủ quyền đât đai về
Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam Cộng Hòa vào thời
điểm đó, mà chỉ dưa ra lời tuyên bố công nhận hải
phận 12 hải lý của Trung quốc.
Tuy
nguyện vọng 'dân tộc Việt nam là một, nước Việt Nam
là một” là chính đáng, nhưng tình trạng hiện hữu
của một quốc gia là một vấn đề sự kiện thực tại
(question of fact) trong luật quốc tế, cho nên thực tại có
hai nước Việt Nam , VNDCCH và VNCH,trong thời gian 1954-1975,
là đúng với luật quốc tế và có lợi về mặt chính
trị và pháp luật trong việc bảo vệ chủ quyền đất
đai trên HS/TS bởi VNCH trong thời gian đó, mà ngày nay,
sau khi thống nhất dất nước năm 1976, thì VNDCCH rồi
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là quốc gia kế
quyền (successor state) trong sự bảo vệ chủ quyền đất
đai đó. Sự kế quyền trong việc bảo vệ chủ quyền
đất đai này đã được chính Thủ Tướng Nguyễn Tấn
Dũng nói tới.
Vào ngày 25
tháng 11/2011 tại Quốc Hội, Ông Dũng đã có những phát
biểu về Hoàng Sa và Trường Sa: Việt
Nam chúng ta khẳng định có đủ căn cứ về pháp lý và
lịch sử khẳng định rằng quần đảo Hoàng Sa và quần
đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta
đã làm chủ thực sự ít nhất là từ Thế kỷ XVII.
Chúng ta làm chủ 2 quần đảo này chưa thuộc bất kỳ
một quốc gia nào và chúng ta đã làm chủ trên thực tế
và liên tục hòa bình. Nhưng đối với Hoàng Sa, năm 1956
Trung Quốc đưa quân chiếm đóng các đảo phía Đông của
quần đảo Trường Sa. Đến năm 1974 cũng Trung Quốc dùng
vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần
đảo Hoàng Sa trong sự
quản lý hiện tại của chính quyền Sài Gòn, tức là
chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Chính quyền Sài Gòn,
chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã lên tiếng phản đối,
lên án việc làm này
và đề nghị Liên hợp quốc can thiệp. Lập trường nhất
quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền
của Việt Nam, chúng ta có đủ căn cứ lịch sử và pháp
lý để khẳng định điều này. Năm 1975 giải phóng miền
Nam thống nhất Tổ quốc thì Hải Quân chúng ta đã tiếp
quản 5 hòn đảo tại quần đảo Trường Sa, đó là đảo
Trường Sa, đảo Song Tử Tây, đảo Sinh Tồn, đảo Nam
Yết và đảo Sơn Ca, năm đảo này do quân đội của
chính quyền Sài Gòn,
chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đang quản lý chúng ta tiếp
quản.
Sau
đó với chủ quyền của chúng
ta, chúng ta tiếp tục mở rộng thêm lên 21 đảo, với 33
điểm đóng quân. Ngoài ra chúng ta còn xây dựng thêm, 15
nhà giàn ở khu vực bãi Tư Chính để khẳng định chủ
quyền của chúng ta ở vùng biển này, vùng biển trong
phạm vi mà 200 hải lý thuộc thềm lục địa và vùng đặc
quyền kinh tế của chúng ta. Trong khi đó ở quần đảo
Trường Sa, Trung Quốc cũng đã chiếm 7 bãi đá ngầm, Đài
Loan chiếm 1 đảo nổi, Philipine chiếm 9 đảo, Malaixia
chiếm 5 đảo, còn Bruney có đòi hỏi chủ quyền trên
vùng biển nhưng không có chiếm giữ đảo nào.
Khi một quốc gia
đã hội đủ 4 điều kiện sau đây của Hiệp Ước
Montevideo 1933 (nó xác lập truyền thống luật quốc tế
mấy thế kỷ về tình trạng quốc gia/statehood), thì phải
được coi là một quốc gia (state) thành viên trong cộng
đồng quốc tế: (a) một dân số ổn định vĩnh cửu ( a
permanent population); (b) một lãnh thổ rõ rệt (a defined
territory); (c) một chính quyền (a government); và (d)có khả
năng giao dịch với quốc gia khác (capacity to enter relations
with other states). VNCH là một thực thể có đủ 4 điều
kiện này. Còn vấn đề các nước khác nhìn nhận một
state có đủ 4 điều kiện trên để lập bang giao thì là
một vấn đề chính trị và tiêu chuẩn chính trị thêm
vào 4 tiêu chuẩn luật, và chính phủ nào ghét một nước
nào mà không nhìn nhận thì cũng không thể xóa bỏ tư
cách state của nước đó—đó là trường hợp Cuba bị
Mỹ ghét, không nhìn nhận, mà Mỹ đâu có xóa tư cách
state của Cuba được. Tòa án Mỹ vào các năm 1920’s công
nhận chính phủ Bolshevik của Liên Sô có đặc miễn như
chủ thể quốc tế khi có các vụ kiện đòi các tiền ký
thác khi xưa trong ngân hàng ở Nga bị Bolsheviks quốc hữu
hóa, mặc dù chinh phủ Mỹ hồi đó chưa nhìn nhận nước
Liên Sô. Nước VNCH 1954-75 đã được mấy chục nước
nhìn nhận ngọai giao, có lúc Trung quốc đã đề nghị cả
hai nước VN vaò Liên Hiệp Quốc. Việc có vô Liên Hợp
Quốc hay không vô được (thí dụ bị một trong 5 quốc
gia hội viển thường trực của Hội Đồng Bảo An phủ
quyết) , thì là chuyện chính trị, không phải là tiêu
chuẩn về sự khai sinh một nước/state.
Những
ai, cứ viện dẫn Hiệp Định Genève nói sẽ có một
nước VN sẽ được thành lập với tuyển cử thống nhất
hai phần đất tạm thời chia cắt, mà coi nước VNCH như
không có trong trời đất, là không
hiểu luật quốc tế mấy trăm
năm về statehood và lẫn lộn tiêu chuẩn pháp lý về
statehood trong luật quốc tế với những sự sắp xếp
chính trị của các cường quốc trong một Hiệp Định
giữa vài nước mà thôi, đã cố tình quên
cái thực tại chính trị là
đã có mấy chục nước nhìn nhận sự khai sinh của VNCH,
và cũng quên mất
luật quốc tế
theo nghĩa là một số ít nước ký HĐ Geneve không thể
truất cái quyền chuyên độc (sovereign) của mấy chục
nước kia đã nhìn nhận VNCH.
Bây
giờ ông Thủ Tướng Dũng nói, và trước đây gỉa thử
tiền nhiệm của ông là ông Đồng nói một cách minh thị
hơn nữa , nói đến 2 nước Việt Nam trong giai đọan
1954-1975, thì cũng không giảm giá trị của sự nghiệp
thống nhất đất nước làm vào năm 1975-76, vì trong lịch
sử thế giới, đã có nhiều quốc gia chia ra nhiều mảnh
rồi lại thống nhất, và cũng có quốc gia chia ra hai, thí
dụ Pakistan chia thành hai, nửa kia thành Bengladesh, Sudan
trước là một thì nay là hai quốc gia, mà các quốc gia
đó vẫn có vị trí được nhìn nhận trong cộng đồng
các quốc gia; và các lãnh tụ chính trị đưa hai quốc
gia của một dân tộc đến thống nhất, mà biết tôn
trọng quyền lợi của cả dân tộc sau khi thống nhất,
thì cũng được lịch sử khen ngợi—như Lincoln, sau Chiến
tranh Nam Bắc Mỹ, đã nói “Cùng nhau, chúng ta sẽ săn
sóc cho cô nhi,quả phụ của cả hai bên”
Vậy
xin nhắc lại là ông Đồng, đại diện miền Bắc Việt
Nam, tức Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCH) lúc đó, phải
được gỉai thích là không có thẩm quyền hay không có
ý định tuyên bố gì về chủ quyền đât đai về Hoàng
Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam Cộng Hòa , một quốc gia
khác, vào thời điểm đó, mà chỉ dưa ra lời tuyên bố
công nhận hải phận 12 hải lý của Trung quốc. Có gỉai
thích như vậy mới không bị Trung quốc bắt bí, và cứ
quy cho Việt Nam cái thế “há miệng mắc quai” vì lối
giải thích Công hàm Phạm Văn Đồng của Trung quốc.
(b)
Thứ hai,một bản tuyên bố đơn phương (unilateral
declaration) như Công Hàm Phạm Văn Đồng không có hiệu
lực pháp lý về mặt quốc tế. Trong luật quốc tế,
không thể cố áp dụng lý thuyết estoppel, tức là lý
thuyết trong luật pháp quốc nội của một số quốc gia
có quy định là “Đã nói ra
thì không nói ngược lại được”,
vì lý thuyết này không áp dụng trong luật quốc tế theo
cùng các điều kiễn như trong luật quốc nội, vì có
những điều kiện ngặt nghèo, và do đó không thể coi
lời nói đơn phương có hiệu lực ràng buộc đương
nhiên trong luật quốc tế. Tòa án quốc trong một vụ xử
giữa Đức và Đan Mạch/Hà Lan về them lục địa đã nói
như vậy.Ngòai ra, theo một án lệ khác, khi xét ý nghĩa
của lời tuyên bố đơn phương, tòa án quốc tế phải
xét một cách chặt chẽ ý định (intention)của người
tuyên bố.
Theo án lệ NUCLEAR
TESTS CASE AUSTRALIA& NEW ZEALAND v. FRANCE 1974 I.C.J. 253, thì
“dĩ nhiên là không phải hành vi đơn phương nào cũng
tạo ra nghĩa vụ; nhưng một quốc gia có thể chọn theo
một lập trường về một vấn đề nào đó với ý định
sẽ tự ràng buộc—miễn là ý định này phải xét kỹ
bằng sự giải thích hành vi đó. Khi các quốc gia đưa ra
lời tuyên bố hạn chế tự do hành động của mình, thì
phải gỉai thích hạn hẹp..” Tòa án cũng nói là : “chỉ
cần xét một vấn đề quan trọng là xem lời văn trong
lời tuyên bố có biểu lộ một ý định rõ rệt không
….Tòa án phải tự có quan điểm riêng về ý nghĩa và
phạm vi mà tác giả lời tuyên bố đơn phương nào có
thể tạo ra một nghĩa vụ pháp lý, và tòa không thể bị
ảnh hưởng gì bởi quan điểm của một quốc gia khác
vốn không thể là một bên đương sự trong lời tuyên bố
đó.” (Of course, not all unilateral acts imply obligation; but a
State may choose to take up a certain position in relation to a
particular matter with the intention of being bound--the intention is
to be ascertained by interpretation of the act. When States make
statements by which their freedom of action is to be limited, a
restrictive interpretation is called for......The Court further
stated in the same case: “... the sole relevant is whether the
language employed in any given declaration does reveal a clear
intention...”(Ibid.,
p. 32). Court must however form its own view of the meaning and
scope intended by the author of a unilateral declarationwhich may
create a legal obligation, and cannot in this respect be bound by the
view expressed by another State which is in no way a party to the
text.).
Ý
định của Thủ tướng Đồng trong cái câu ông nói ở
Công hàm 1958 (“Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán
thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết
định về hải phận của
Trung Quốc.Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ
quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn
trọng hải phận 12 hải lý của
Trung Quốc'')
phải
được xét trong khuôn khổ quyền hạn thủ tướng chiếu
Hiến Pháp 1946, theo đó Chính phủ gồm
Chủ tịch nước, Phó chủ tịch và nội các (điều 44),
trong nội các đó, có Thủ Tướng (điều 44), và Chủ
tịch nước mới là người thay mặt cho nước (điều 49
đọan a) mà ký hiệp ước với nước khác (điếu 49 đọan
h ) ràng buộc VN về việc quan trọng, thí dụ chủ quyến
đât đai như việc nhượng đất, kèm theo quyết định
chuẩn y hiệp ước bởi nghị viện là cơ quan quyền lực
cao nhất, thì mới có quyền về nhượng đất (điều 22
và 23). Còn thủ tướng không thể vượt quá quyền, theo
học lý luật pháp ultra vires, và công hàm của ông, trong
ngôn ngữ dùng, chỉ có ý định ủng hộ ngọai giao cho
Trung quốc về một điểm là 12 haỉ lý hải phận mà
Trung quốc đang lo lắng tuyên bố để chống sự đe dọa
lúc đó của Mỹ từ hai đảo Kim Môn và Mả Tổ quân
đội Đài Loan chấn giữ với sự ủng hộ mạnh mẽ của
Mỹ và đe dọa lớn hơn của Mỹ từ eo biển Đài Loan
với Hạm đội 7. Hơn nữa, ý định của ông Đồng
không thể được gỉai thích là liên quan đến nhượng
đất, vì Trung quốc yêu sách về tất cả các đảo ở
Hoàng Sa và Trường Sa, trong đó nhiều đảo thuộc quyền
chiếm hữu của một số quốc gia Đông Nam Á, mà ông
Đồng không là đại diện để nói về chuyện nhượng
đất; lời ông Đồng nói, Trung quốc không thể đem đối
kháng với các quốc gia Đông Nam Á đó được—kể cả
VNCH . Theo án lệ Nuclear Tests case nói trên, Toà án quốc
tế không cần nghe giải thích chủ quan, thủ lợi theo ý
mình, của Trung quốc.