Vũ Quang: "Tàu vỏ thép mua về để làm gì? Câu hỏi như đùa, nhưng thực tế cho thấy, có không ít
ngư dân nhận tàu vỏ thép về chỉ để nằm ụ.
Khác với các ngư dân đóng tàu gỗ phải bỏ vốn đối ứng
đến 30%, phải bỏ tiền túi, thế chấp nhà cửa để vay đóng tàu nên được xem là
những ngư dân chân chính, quyết tâm sống chết với nghề thì các ngư dân nhận tàu
vỏ thép được cho là nhận quá nhiều sự ưu đãi và chiều chuộng không cần thiết."
Tháng 7/2014, sau sự kiện Trung Quốc đưa Giàn khoan
HD981 vào vùng biển Việt Nam cùng với việc hàng loạt tàu cá của ngư dân bị đâm
trên biển, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định ban hành Nghị định 67/CP
để ngư dân có điều kiện nâng cấp, đóng mới tàu cá phục vụ bám biển và đánh bắt
xa bờ.
Theo Nghị định, ngư dân đóng tàu vỏ thép được vay 95%
giá trị con tàu với lãi suất 7% một năm, nhưng Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ 6%,
ngư dân chỉ phải trả lãi suất 1% trong thời gian kéo dài tới 16 năm. Năm đầu
tiên ngư dân còn được hỗ trợ không phải trả lãi suất.
Với mỗi con tàu đóng mới có công suất từ 800 CV trở
lên, ngư dân còn được hỗ trợ tiền dầu cho mỗi chuyến đi biển là 100 triệu đồng,
tối đa một năm là bốn chuyến đi biển xa bờ, nghĩa là được thêm khoảng 400 triệu
trên mỗi chiếc tàu.
Một thực tế khác hẳn
Nắm bắt cơ hội này, hàng loạt nhà máy đua nhau xin
đăng ký đóng tàu cá vỏ thép, trong đó có nhiều công ty mới được thành lập không
hề có chút kinh nghiệm trong việc đóng tàu cá, thậm chí toàn bộ cơ sở vật chất
lẫn nhân lực là thuê mượn từ các đơn vị cũng hào hứng tham gia.
Với giá thành mỗi chiếc tàu vỏ thép trung bình từ
15-20 tỷ đồng thì số tiền 5% ngư dân phải bỏ ra để được vay đóng tàu không hề
nhỏ, từ 750 triệu đến 1 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, họ còn cần chi các khoản tiền chỉnh sửa
thiết kế (từ 70-100 triệu), cộng với các chi phí đi lại ra Hà Nội làm hồ sơ,
làm các thủ tục đăng ký với Chi cục Quản lý Thủy sản, làm thủ tục vay vốn ngân
hàng... rất tốn kém. Nhiều ngư dân đã phải nghỉ đi biển hàng tháng trời để lo việc
giấy tờ.
Các đơn vị đóng tàu là những người nắm bắt thời cuộc
rất nhanh. Bằng cách nào đó, họ nhanh chóng có được danh sách các ngư dân được
duyệt hồ sơ.
Một chiến dịch lôi kéo khách hàng được thực hiện tức
thì. Các “hãng tàu” cho người tiếp cận và làm hết các thủ tục hành chính cho
ngư dân. Được biết có trường hợp còn sẵn sàng bỏ tiền ra cho ngư dân lo vốn đối
ứng 5% với ngân hàng, đi kèm với các biện pháp 'lấy lòng' khác.
Bản quyền hình ảnh Linh Pham / Stringer / Getty Images Image caption Với Nghị định 67, nhiều ngư dân được duyệt hồ sơ cấp vốn để nâng cấp hoặc đóng mới tàu cá kể từ năm 2014 tới nay |
Những ngư dân bình thường chẳng ai hỏi tới nay bỗng
trở thành “thượng đế” thật sự. Hàng loạt các đơn vị đóng tàu, đơn vị cung cấp
thiết bị tàu biển đưa ô tô đến đưa đón ngư dân. Họ đưa ngư dân làm thủ tục vay
vốn ngân hàng, đưa ra Hà Nội làm hồ sơ thiết kế, đưa về tham quan cơ sở đóng
tàu, tiếp đón tưng bừng.
Bên cạnh việc phải bỏ tiền tỷ ra lo đối ứng cho ngư
dân, các doanh nghiệp đóng tàu còn phải lo 'đối phó' để đi qua được các cửa
ngân hàng (để được giải ngân cho vay vốn), Trung tâm Đăng kiểm Tàu cá (ngân
hàng căn cứ vào sự giám sát của đơn vị đăng kiểm để giải ngân), và hàng loạt
các ban ngành liên quan như Sở Nông nghiệp, Chi cục Quản lý Thủy sản, chi phí
xin giấy phép đóng tàu…, mà ở mỗi khâu không chỉ có chuyện nộp giấy tờ.
Doanh nghiệp kiếm lãi từ đâu?
Tất nhiên chả có doanh nghiệp nào bỏ tiền ra làm từ
thiện cả.
Một con tàu 20 tỷ đồng, đơn vị đóng tàu trung bình
phải chi ra 1 tỷ lo đối ứng cho ngư dân, từ bảy tám trăm triệu đến 1 tỷ các chi
phí lấy lòng “thượng đế”, và từ 1 đến 2 tỷ chi phí "quan hệ" trong
quá trình làm thủ tục, nếu không làm ăn gian dối thì lấy đâu ra lợi nhuận?
Cách làm phổ biến nhất chỉ có một: đó là làm việc với
các đơn vị lập dự toán thiết kế, khai tăng khống giá thành và số lượng vật tư
thiết bị lên để bù vào chi phí.
Ví dụ như đóng một chiếc tàu vỏ thép thực tế hết 90
tấn thép thì lập dư dự toán phê duyệt là 130 tấn; giá thép nhập về thực tế là
12 ngàn/kg, nâng giá dự toán lên 18 ngàn; tăng giá trị các thiết bị trên tàu
như lưới và các ngư cụ khác, máy chính, máy phát điện, tời kéo… lên từ 20-30%.
Vừa qua, báo chí có viết về việc hàng loạt tàu thép
chưa ra khơi đã gỉ.
Cụ thể là công ty Đại Nguyên Dương dùng thép Trung Quốc
đóng tàu cho ngư dân và công ty Nam Triệu dùng máy cũ để lắp cho ngư dân với
chênh lệch giá của thép Trung Quốc và thép Nhật khoảng 5 ngàn/kg, chênh lệch
giữa máy cũ và máy mới cả tỷ đồng. Đây chính là lợi nhuận từ việc làm gian dối
của các công ty đóng tàu
Tàu vỏ thép mua về để làm gì?
Câu hỏi như đùa, nhưng thực tế cho thấy, có không ít
ngư dân nhận tàu vỏ thép về chỉ để nằm ụ.
Khác với các ngư dân đóng tàu gỗ phải bỏ vốn đối ứng
đến 30%, phải bỏ tiền túi, thế chấp nhà cửa để vay đóng tàu nên được xem là
những ngư dân chân chính, quyết tâm sống chết với nghề thì các ngư dân nhận tàu
vỏ thép được cho là nhận quá nhiều sự ưu đãi và chiều chuộng không cần thiết.
Sau khi được duyệt mua tàu, nhận một số tiền kha khá
để tiêu xài (tiền doanh nghiệp “lót tay” và tiền dầu), có những ngư dân mua tàu
vỏ thép về nhưng không màng tới chuyện đánh bắt.
Tài sản thế chấp cho ngân hàng khi vay tiền ngân hàng
để mua tàu lại chính là con tàu đó. Năm đầu ngư dân không phải lo đến việc trả
lãi vì được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của nghị định 67/CP. Từ năm
thứ hai, nếu lỗ lã thì tàu đó cứ trả lại cho ngân hàng là xong.
Trên đây là các lý do mà rất nhiều các tàu vỏ thép
chưa ra khơi đã hư hỏng như hiện nay.
Một nghị định tưởng chừng rất ý nghĩa và nhân văn
nhưng đã thất bại thảm hại, bởi nó đến từ lòng tham của những người liên quan,
từ ngư dân cho tới những cơ quan, tổ chức triển khai thực hiện.