27 mai 2017

Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng: Phải qua hành trình dài để khẳng định



Đậu Anh Tuấn
 
Cần xem các doanh nghiệp sản xuất tư nhân Việt Nam là những hạt giống quan trọng để có được khu vực tư nhân lớn mạnh và một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Ảnh: QUỐC HÙNG


Rõ ràng vị thế, vai trò của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đã và đang có những thay đổi lớn. Lần tìm đọc lại một bản báo cáo nghiên cứu về kinh tế tư nhân Việt Nam từ năm 1997, báo cáo số 1 trong chuỗi báo cáo nghiên cứu chính sách của chương trình MPDF, một chương trình Phát triển Mêkông do tập đoàn Tài chính Quốc tế IFC tài trợ. Tác giả báo cáo là hai học giả quốc tế James Riedel và Trần Sĩ Chương. Đây có thể xem là loạt nghiên cứu đầu tiên và bài bản nhất về kinh tế tư nhân Việt Nam ở giai đoạn mở cửa.
Báo cáo cách đây 20 năm nhận định rằng khu vực tư nhân Việt Nam phần lớn đi lên từ hộ gia đình đang có quy mô quá bé nhỏ, quá yếu ớt để cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ngược lại khu vực doanh nghiệp nhà nước lại quá cồng kềnh và cứng nhắc để duy trì tính cạnh tranh.


Qua phỏng vấn trực tiếp các doanh nghiệp tư nhân chính thức, báo cáo nhận định và phân tích năm khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đang đối mặt là vấn đề tín dụng, quyền sở hữu đất và quyền sử dụng đất, hệ thống thuế, cơ chế thương mại (giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp) và tệ hành chính quan liêu.
Trong báo cáo năm 1997 này, các chuyên gia gợi ý cần xem các doanh nghiệp sản xuất tư nhân Việt Nam là những hạt giống quan trọng để có được khu vực tư nhân lớn mạnh và một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Báo cáo khẳng định công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu là chiến lược khả thi duy nhất để phát triển nhanh nền kinh tế Việt Nam. Điều tối quan trọng dẫn đến thành công của chiến lược này là sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ.
Những doanh nghiệp tư nhân đầu đàn hiện nay dường như vẫn đang “mải mê” với bất động sản, xây dựng và đầu tư tài chính, những ngành nghề nằm trong nhóm có năng suất lao động thấp nhất.
Sau 20 năm, Đảng đã soạn thảo nhiều nghị quyết, Quốc hội đã ba lần ban hành Luật Doanh nghiệp, Chính phủ cùng các bộ, ngành đã ban hành và thực thi hàng loạt nghị quyết, chương trình hành động. Việt Nam từ 25.000 doanh nghiệp hoạt động chính thức tăng lên hơn 600.000 doanh nghiệp hiện nay và đang đặt ra mục tiêu có được 1 triệu doanh nghiệp đến năm 2020. Các hộ kinh doanh, từ con số 800.000 hộ theo thống kê năm 1997 đã tăng lên hơn 3,5 triệu hộ hiện nay.
Những điều quen
Tuy nhiên, dù đã 20 năm, dù số lượng doanh nghiệp chính thức tăng lên hơn 20 lần, đọc báo cáo của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam 20 năm trước vẫn là những điều thật quen.
Điều quen thứ nhất là hầu hết vẫn là doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ. 97% doanh nghiệp nhỏ và vừa theo tiêu chí chính thức, hơn 40% doanh nghiệp có doanh thu hàng năm dưới 1 tỉ đồng theo số liệu của Tổng cục Thuế. Lo ngại hơn là theo thời gian, quy mô doanh nghiệp đang ngày càng nhỏ đi theo nhiều báo cáo và nghiên cứu.
Vì quy mô quá nhỏ, thiếu mất nhóm doanh nghiệp cỡ vừa (hiện chỉ chiếm khoảng chưa đến 3%) góp phần tạo ra một khu vực doanh nghiệp tư nhân kém cạnh tranh. Báo cáo Việt Nam 2035 của Ngân hàng Thế giới đã nhận định rằng quy mô quá nhỏ và tính phi chính thức của khu vực kinh tế tư nhân đã cản trở việc tăng năng suất lao động nhờ hiệu quả kinh tế theo quy mô, cản trở quá trình ứng dụng công nghệ và tăng cường đổi mới, sáng tạo.
Điều quen thứ hai là những khó khăn, vướng mắc. Đọc báo cáo cách đây 20 năm sao thấy giống như hiện nay. Tại hội nghị ngày 17-5 vừa qua, các ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp dân doanh được gửi qua Phòng Thương mại và Công nghiệp việt Nam (VCCI) hay phản ánh trực tiếp tại hội nghị này vẫn chủ yếu là vốn (như tiếp cận vốn khó khăn, chi phí vốn quá cao); vẫn là đất đai và sự bấp bênh của quyền sử dụng đất; vẫn là vấn đề thuế và nóng bỏng hơn là những phàn nàn về tệ hành chính quan liêu. Có chăng điểm khác là không còn những giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu cấp cho từng doanh nghiệp như xưa mà thôi.
Điều quen thứ ba là những nhận định về khu vực doanh nghiệp nhà nước sao quá quen. Doanh nghiệp nhà nước vẫn cồng kềnh và cứng nhắc, những chương trình cải cách doanh nghiệp nhà nước chậm chạp ít khi đạt được kế hoạch đề ra, đây vẫn là khu vực sử dụng nhiều nguồn lực xã hội, nắm giữ nhiều tài nguyên và độc quyền kinh doanh trong nhiều ngành quan trọng, thiết yếu.
Những câu hỏi nhức nhối
Bên cạnh những điều quen, đọc lại báo cáo nghiên cứu thực hiện cách đây 20 năm, những câu hỏi nhức nhối vẫn cứ đặt ra. Hai mươi năm, một phần năm thế kỷ, thời gian đủ để một quốc gia trên thế giới kịp “thay da đổi thịt” nhưng sao nền kinh tế hay khu vực doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam lại chuyển động chậm quá! Tại sao phải đi mãi một hành trình rất dài để khẳng định được rằng kinh tế tư nhân là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế nước nhà, điều là hiển nhiên ở tất cả các nước khác?
Báo cáo cách đây hai mươi năm hầu như không hề nhắc đến các doanh nghiệp FDI. Theo báo cáo, các doanh nghiệp tư nhân trong nước mới là chủ thể chính của nền kinh tế định hướng xuất khẩu. Nhưng nhìn lại hiện nay, 10 đồng xuất khẩu của Việt Nam đã có hơn 7 đồng là đóng góp từ các doanh nghiệp FDI. Các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam vẫn loay hoay chưa thể kết nối thành công vào những chuỗi sản xuất toàn cầu. Họ như những người đứng ngoài, cô đơn trên đất nước mình với thực trạng khu vực công nghiệp hỗ trợ non kém.
Đáng tiếc là hiện nay chưa có một thước đo riêng về sức khỏe và sự lớn mạnh của khu vực tư nhân trong nước, các báo cáo thành tích hàng năm đang bị những con số màu hồng từ kết quả sản xuất, xuất khẩu của các tập đoàn hàng đầu thế giới như Samsung, Intel, Canon... che khuất mất.
Sau hai mươi năm, quá buồn là Việt Nam chưa hình thành được một khu vực doanh nghiệp tư nhân sản xuất lớn mạnh, có năng lực cạnh tranh quốc tế. Hiện nay, tìm được một thương hiệu của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam mang tầm cỡ châu lục để tự hào thật sự rất khó. Những doanh nghiệp tư nhân đầu đàn hiện nay dường như vẫn đang “mải mê” với bất động sản, xây dựng và đầu tư tài chính, những ngành nghề nằm trong nhóm có năng suất lao động thấp nhất. Như báo cáo của Ngân hàng Thế giới đánh giá, những ngành này dù chiếm tỷ trọng rất lớn về tổng tài sản trong khu vực doanh nghiệp, nhưng lại có xu hướng đầu tư không dài hạn, được hình thành và nuôi dưỡng bởi một hệ thống phân bổ vốn và đất đai kém minh bạch.