Bình phẩm
Thiện Tùng: "Cầm đầu “Việt Nam Cộng hòa” tham nhũng thúi nát dẫn đến
sụp đổ như thế, Cầm đầu “Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” (Đảng CSVN) thì sao? – đây là việc “nhạy cảm”,
xin bạn đọc cho nhận xét."
Hà cớ gì?
Hiện nay vẫn còn nhiều người trong nước cũng như ngoài nước ước mơ phục dựng lại chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Sở dĩ còn ước mơ này là vì chế độ cộng sản đã đưa đất nước xuống vực thẳm về mọi mặt chứ không chỉ có tham nhũng.
Chỉ cần nhìn vào ngành giáo dục đang bị lưu manh hóa, nhìn vào bọn tham nhũng phô trương, không cần che giấu, tài sản cướp đưọc qua các biệt thự khủng, các xe siêu sang, đồng hồ tiền tỷ…cũng hiểu được đạo đức của chế độ cộng sản đang ở địa ngục.
Trước tình trạng quá xấu xa, tha hóa của xã hội cộng sản, cộng với sự bất lực để hình dung một xã hội lý tưởng phải có, một số người quay lại với chế độ VNCH là điều dễ hiểu.
Ai đã từng sống dưới chế độ VNCH cũng có thể nhận ra đó là một chế độ có phần nào tự do, nền giáo dục rất có chất lượng, nền hành chánh không hành dân là chính. Chế độ VNCH có mặt trái của nó: lãnh đạo độc đoán, tham quyền cố vị, tham nhũng ở thượng tầng rất trầm trọng.
Cái giá phải trả của một chế độ như vậy là sự sụp đổ của chính nó. Hồi ký của Trung tướng Trần Văn Đôn rất đáng đọc để hiểu ruột gan của lãnh đạo VNCH từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu.
Bài viết “Kẻ cầm đầu chế độ” của tác giả Thiện Tùng đặt câu hỏi “… sự bất tài, thất đức của những “kẻ cầm đầu chế độ” VNCH, vậy hà cớ gì lớp trẻ lại cố nói tốt cho một chế độ chưa hề tốt?!”. Câu hỏi này cần được đào sâu thêm về lý, về tình nhằm tạo nên sự thông cảm gìữa những người đã từng ở phía bên này hoặc phía bên kia chiến tuyến với mục tiêu thực hiện được sự hòa giải thực sự.
Dân Quyền
Từ khi Mỹ tuyên bố: “Việt Nam hóa chiến tranh, công bố lịch rút quân và Quốc hội Mỹ ra nghị quyết cắt viện trợ đối với chế độ Sài Gòn, các nước phương Tây, nhất là Mỹ, họ lớn tiếng phê phán nhóm chóp bu chế độ Sài Gòn tham nhũng, đầu cơ, buôn lậu.v.v… Cũng đồng thời với thời điểm ấy, những người cầm đầu chế độ Sài Gòn ra sức thanh minh cho mình, họ cho rằng: Mỹ thua rồi viện cớ rút quân trong danh dự để hủy bỏ những điều đã cam kết… Cứ thế, họ nói qua nói lại, đổ tới đổ lui chẳng ra làm sao!. Sự việc rõ như ban ngày, chỉ cần để ý một chút thì biết:
-
Đã đến lúc Mỹ
không thể tiếp tục gánh vác cuộc chiến vô nghĩa, không thể tiếp tục ủng hộ một
chế độ tham nhũng thúi nát, không được lòng dân. Không còn lối thoát, từng bước
họ tháo lui.
-
Và ai cũng biết,
giới lãnh đạo chóp bu Sài Gòn có “sạch sẽ” bao giờ. Cụ thể những dơ bẩn ấy có
người chưa biết hoặc đã biết mà không có gan nói. Khi chế độ Sài Gòn sụp đổ, mọi
việc ngày càng lộ ra. Nếu nói thì ai giải quyết và giải quyết bằng cách nào khi
những thủ phạm ấy đã đào vong nơi chân trời góc biển?!.
Những
năm tháng ở Việt Nam, có điều kiện tiếp cận, Alen Dowson điều tra nắm được phần
nào sự dơ bẩn trong nhóm chóp bu chế độ Sài Gòn lúc bấy giờ.
Alen
Dowson là ai?
Mãi
mê theo đuổi công việc tìm kiếm tài liệu để hiểu rõ hơn bộ mặt, bộ sậu của những
kẻ cầm đầu chế độ Sài Gòn, phóng viên UPI Alen Dowson không để ý đến việc Quân
Giải phóng đã tràn ngập vào thủ phủ chế độ Sài Gòn.
Alen
Dowson bị Quân Giải phóng bắt giữ một tuần, sau đó được thả ra và đến 3/9/1975,
anh bị trục khỏi Việt Nam – về Mỹ.
Alen
Dowson không chết mà được đối xử tử tế là may đối với anh ta, nhưng không hay
ho chút nào đối với ông Thiệu và đồng bọn. Alen Dowson nghiễm nhiên là nhân chứng
sống trong những ngày tàn của chế độ Sai Gòn. Khi về Mỹ, anh bắt tay ngay vào
việc viết cuốn sách “55 ngày đêm chế độ Sai Gòn sụp đổ”-
Sách nầy Thông tấn xã Việt Nam dịch, in, lưu hành dưới dạng “tài liệu tham khảo”
nhân kỷ niệm 10 năm “giải phóng” miền Nam Việt Nam.
Cuốn
sách nầy nhiều chương mục, Alen Dowson dành hẳn một chương để nói về ông Thiệu
và bộ sậu của ông ta với tiêu đề “Kẻ cầm đầu chế
độ”.
Trong
bài viết nầy, Tùng tôi trích dẫn và có đôi lời bình gói gọn trong chương “Kẻ cầm đầu chế độ” . (chữ nghiêng là
trích).
Alen
Dowson viết: <<… Thiệu cử trung tá Bảo đến Phan Rang cốt để
tăng cường bảo vệ Ninh Chữ - quê hương của Thiệu. Sau khi gặp tướng 3 sao Nguyễn
Vĩnh Nghi, Bảo dẫn một số quân đến trấn giữ Ninh Chữ. Số tàn quân đó có 5 là Thủy
quân Lục chiến. Ngày15/4/1975, Phan Rang bị thất thủ, tướng Nghi bị đối phương
bắt. Ninh Chữ hẻo lánh, Việt Cộng chưa đá động. Binh nhì Đức cùng 4 Thủy quân
đánh bộ khác lái máy ủi chạy thẳng đến khu mộ tộc thuộc của Thiệu, bất cháp can
ngăn của Bảo, trong vòng 5 phút, lưỡi gạc của máy ủi đã nghiền nát những bia mộ
và mặt đất bị xơi tung lên, chẳng còn nhận ra những ai đã chôn cất ở đây. Năm
binh sĩ rời máy ủi đi về hướng biển, biểu lộ vẻ mệt mõi chán chường.
Hai ngày sau khi Phan Rang sụp đổ, tỉnh
lỵ anh em với nó là Phan Thiết cũng bị Bắc Việt Nam chiếm nốt. Thế là Cộng sản
kiểm soát 20 tỉnh, trọn vẹn 2 Quân khu, hai phần ba Nam Việt Nam rồi!. … Ở Sài
Gòn, các thế lực nheo lên đòi thủ cấp chính trị của Thiệu – kẻ cầm đầu chế độ.
Phe tự nhận là “trung lập” của Sài
Gòn, họ không thích Cộng sản và cũng không thích chống Cộng sản cũng muốn Thiệu
ra đi. Phe cực hữu cũng vậy. Và éo le thay, chính họ lại công khai tấn công vào
sự tham nhũng của Thiệu. Từ năm 1974, nhóm nầy phổ biến “Bản cáo trạng số 1”,
các nhựt báo Sài Gòn đăng bản cáo trạng nầy đều bị tich thu, nhưng còn rất nhiều
bản đươc chuyền tay trong dân chúng khắp Nam Việt Nam. Những lời tố cáo ấy mang
tính chất nghiêm trọng và có giá trị tài liệu.
Những lời tố cáo như bom nổ là “Bản
cáo trạng số 2”, tuy không gây náo động như “Bản cáo trạng số 1”, nhưng được dư
luận rộng rãi tin. Ở mức độ rộng hơn, Quân đội Sài Gòn muốn Thiệu ra đi vào tuần
thứ nhì của tháng 4/1975 – đây là lá phiếu quan trọng nhứt chống Thiệu…
Vì
sao ngưới ta dấy lên chống Thiệu? Alen Dowson viết:
“…Thiệu thu nhập vài trăm đô-la tháng mà
có 2 căn nhà ở Sài Gòn trị giá 150.000 đô-la, một nhà thủy tạ ở phía bắc Sài
Gon, l vila tráng lệ ở Thụy Sĩ, nhiều đất đai ở một số tỉnh… Vợ Thiệu xây cái bịnh viện gọi là “Bịnh viện cho dân
nghèo” (Vì Dân) bằng tiền bòn rút, buôn lậu, và kết cục thì dân nghèo không thể
vào bịnh viện nầy. Anh vợ Thiệu thì đầu cơ nâng giá phân bón hóa học do Mỹ cung
cấp, bán cho nông dân với giá cắt cổ. Cố vấn cho Thiệu là Đặng văn Quang và Trần
Thiện Khiêm, tổ chức buôn bán thuốc phiện. Một người cô của Thiệu tích trữ, đầu
cơ và nâng giá gạo, thâu tóm nhiều phương tiện vận tải để làm giàu. Thiệu còn
nhận quà bằng đất đai, dùng công binh xây dựng trang trại riêng.v.v…
Sau 10 năm ở chức vụ cao nhứt ở Nam
Việt Nam, trong 8 năm làm Tổng thống, năm 1975, Thiệu là người giàu nhứt Nam Việt
Nam – nhờ tham nhũng mà ra. Trong chức vụ, Thiệu không hề được phép nhận hơn số
lượng 600 đô-la mỗi tháng và có lẽ từ 300 đến 400 đô-la phụ cấp, thế nhưng dù bất
cứ tiêu chuẩn nào, Thiệu đã và vẫn còn giàu sụ.
Thiệu làm thế nào giàu được? Đó là
chuyện phức tạp, quanh co, những gì sắp kế ra đây chắc chắn là không đủ, cái biết
được là hai trường hợp ngoại lệ: Một Vila ở Thụy Sĩ và một ngân hàng ở Sài Gòn
bị phá sản, còn thì cả tên Thiệu lẫn tên vợ Thiệu không tìm thấy trong bất cứ hồ
sơ nào. Thế mà họ trở nên giàu có. Theo các cuộc phỏng vấn và các nguồn điều
tra khác thì gia đình Thiệu đã ăn cắp hàng trăm triệu đô-la. Đó là tiền thuế của
dân Mỹ và dân chúng nước họ.
Công cuộc làm tiền của Thiệu dựa trên
chiến tranh và môi trường cuộc chiến, là do viện trợ Mỹ nuôi dưỡng. Có lẽ Thiệu
thành thật tin rằng không bao giờ thương lượng được với Cộng sản. Thiệu tin như
vậy nên cuộc chiến cứ tiếp tục. Bởi vì cuộc chiến tiếp diễn nên Thiệu và gia
đình ông ta càng giàu thêm. Ở hạ tầng sự tham nhũng đơn giản, nhưng ở thượng tầng,
nó là một mạng lưới phức tạp – cũng như Ma-phi-a, lấy việc bảo vệ thủ lĩnh làm
mục đích chính: Ở hạ tầng nó là sự mua bán thế lực lặt vặt, bảo vệ và tống tiền.
Một tiệm thuốc tây ở đường Ca-ti-na (Catinat) bán công khai thuốc Cần sa, Nha
phiến cho lính Mỹ, vì chủ tiệm được Cảnh sát bảo vệ. Các chỉ huy Mỹ cấm lính đến
đó lấy thuốc thì ma túy được chuyển qua tay gái bán ba (bar). Những tay buôn gỗ
Tây nguyên hoạt động được vì có các cấp chỉ huy Quân đội được trả một phần trăm
(1%) lợi nhuận. Tiền ngừng trả cho chỉ huy Quân đội thì đoàn xe chở gỗ bị phục
kích bởi du kích Việt Cộng…
Khi tham nhũng trở nên quan trọng và
số tiền dính líu nhiều hơn thì hệ thống thành một mạng lưới hình tháp. Ngồi
trên đỉnh tháp tham nhũng tại Việt Nam là Thiệu. Tháp chỉ là công cụ tổ chức,
không nhứt thiết là con đường chuyển tiền. Bằng cách cho phép những người chung
quanh tháp ấy tự kiếm ăn. Thiệu tạo được ân nghĩa và những món nợ quyền lực. Từ
năm 1965 đến năm 1975, Y tạo hàng ngàn hoặc hàng vạn ân nghĩa. Khi cần đền đáp thì
lớn bé trong cái tháp ấy đều răm rắp tuân theo.
Phải hiểu rằng, ở Việt Nam, dù Hiến
pháp có tuân theo triệt để thì Tổng thống vẫn có quyền lực bao la. Thiệu có quyền
nhiều hơn Hiến pháp. Là Chủ tịch Hội đồng Tướng lĩnh, một cơ quan nằm ngoài Hiến
pháp, Thiệu nắm gọn quyền bành trướng Hội đồng nầy. Là Tổng Tư lịnh Quân đội, đứng
đầu tổ chức hành chính công vụ, một tay Thiệu giữ toàn quyền bổ nhiệm, thăng
trưởng, giáng và cách chức 3 triệu người giữ các chỗ làm ấy, tuyệt đối không ủy
nhiệm cho ai.
Tiền bạc luôn lọt từ trên cao xuống
thấp và ngược lại. Mỗi cấp rút bớt tiền ra để chia sẻ cho họ. Đó là hoạt động của
đường dây tham nhũng. Nhưng hình như Thiệu không thèm làm. Tiền hậu tạ của chủ
tiệm bar, kiều dân nhập cư bất hợp pháp… không đến tay ông Thiệu. Y thu lượm ơn
nghĩa và dùng ơn nghĩa giúp Tổng thống nầy làm giàu theo kế hoạch riêng. Phương
pháp thu lượm ơn nghĩa được Lansdale mô tả như sau:
“…Guồng máy Dân sự và Quân sự hoạt động
theo chế độ chủ nhân ông, xoay quanh mỗi tư lịnh Quân đoàn. Mỗi người được bổ
nhiệm có quyền cách chức mọi tỉnh trưởng, quận trưởng…”
Năm 1975, Thiệu bổ nhiệm và cách chức
thường xuyên 4 tư lịnh Quân đoàn, nắm phần lớn việc bổ nhiệm tư lịnh Sư đoàn,
như vậy là còn nắm quyền kiểm soát nhiều hơn cái chế độ mà Lansdale đã nói. Một
ví dụ đặc biệt cho thấy cách hoạt động của Thiệu: Năm 1973, Y thăng cấp lên tướng
3 sao cho Nguyễn Vĩnh Nghi và bổ nhiệm cho Nghi làm tư lịnh Quân đoàn 4 – tức
là Tây Nam bộ. Nghi được tự do xay xở để làm giàu. Vào giữa năm 1974, các nguồn
tin từ sứ quán Hoa Kỳ nói rằng: 8.000 điện đài, 23.000 khẩu súng M16 và vũ khí
nhỏ khác đã biến mất khỏi Quân đoàn 4 trong thời gian Nghi làm tư lịnh. “Bản
cáo trạng số 1” buộc Thiệu có hành động tượng trưng để dẹp tham nhũng thì Thiệu
buộc phải cách chức Nghi. Hai tướng lĩnh khác thuộc Quân khu 3 đã bị nhốt năm
1974 khi những người đi kiểm tra của cả quân đội Sài Gòn lẫn sứ quán Hoa Kỳ,
nói là: Tụi nầy cố tình bán gạo cho Việt Cộng. Hai người đó là Trần Quốc Lịch của
sư 25 Tây Bắc Sài Gòn và Lê văn Tư của sư 5 ở hướng Bắc thủ đô. Việc bán lương
thực và trang bị quân sự cũng như giấy hoãn dịch trong sư đoàn đã làm cho 2 đơn
vị nầy, về mặt tác chiến, trở nên vô hiệu lực. Đến lúc cần ném chúng vào trận
đánh ở Sài Gòn tháng 4/1975 thì sư đoàn 25 đã không thể nào hành quân như lực
lượng chiến đấu.
Những bổ nhiệm vào hàng tá chức vụ
như thế là do Thiệu làm ra, với cách tính toán là tạo ơn nghĩa để dùng sau nầy.
Một viên tướng được Thiệu bổ nhiệm là có thể tự do xây dựng mạng lưới tham
nhũng cho riêng mình. Họ kiếm tiền bắng cách ghi vào sổ lương sư đoàn những
lính ma. Họ bán những chỗ làm việc an toàn, tránh xa chiến trường cho binh sĩ
nào muốn và đủ sức trả cái giá mà họ đưa ra. Họ bán trang bị dành cho đơn vị ra
chợ trời, thậm chí bán cho cả Việt Cộng. Họ cố tránh bán vũ khí sợ Mỹ biết sẽ mở
cuộc điều tra, còn đồ dùng nhà ăn tập thể, quân phục, xe jeep, giày cao cổ thì
mang lại nhiều tiền, các mặt hàng nầy tràn trề ở chợ trời, chứng tỏ các sĩ quan
cao cấp có nhúng tay vào. Xăng trở thành mặt hàng đắt khách ở chợ trời khi khối
Á Rập nâng giá. Một số tướng lãnh Sài Gòn đứng ra điều khiển các đường dây bảo
vệ đám con buôn chợ trời và buôn lậu…
Họ làm thế nào Thiệu không cần chú ý,
chỉ có quy định ngầm là phải tránh đường dây do tay Tổng thống và gia đình ông
ta điều khiển. Thiệu cốt tạo ân nghĩa và ta hãy xem ân nghĩa được đáp đền như
thế nào:
…Tướng lĩnh được Thiệu bổ nhiệm có
quyền bổ nhiệm cấp thuộc hạ của mình. Ở đây tiền mặt được trao tay, chỗ làm cao
giá nhứt là chỉ huy trưởng Cảnh sát Chợ Lớn – khu người Hoa. Chức vụ đó đáng
giá 15 triệu, tương đương 130.000 đô-la. Chỗ nầy dễ kiếm tiền đến nỗi chỉ sau
2-3 tháng là đủ tiền trả chỗ. Các đại tá quân đội phải mua 80.000 đô-la, nếu muốn
làm tỉnh trưởng Châu Đốc – giáp biên giới Campuchia. Nguồn thu ở đây chính là
qua các tay buôn lậu bò, tiền lời ( tiền phải nộp) đếm theo đầu súc vật đi qua
biên giới.
Đi dần lên trong các cấp chính quyền,
hầu hết các bộ trưởng đã xoay xở làm giàu bằng tham nhũng. Điển hình là Phạm
Kim Ngọc, bộ trưởng Bô Kinh tế được Mỹ thích, hắn đã xoay xở mở được một trương
mục 8 triệu đô-la ở Đài Loan bằng cách lấy “tiền hoa hồng” do việc bảo đảm những
hợp đồng của các công ty muốn làm ăn ở Việt Nam.
Thiệu làm ngơ cho thuộc hạ làm ăn thì
thuộc hạ cũng phải làm tấm che gió cho vợ Thiệu là Nguyễn thị Mai Anh và Lý
Long Thân (chồng em gái nuôi của Mai Anh) tham nhũng hàng triệu đô-la. Số tiền
lớn nầy đi vào các trương mục ngân hàng của Thiệu ở Xin-ga-po, Thụy Sĩ, chia lời
thầm lặng ở Đài Loan, Gu-am. Ha-oai.v.v…
Những dính líu của Mai Anh khó xác lập
ồ sơ. Mụ là một tay say mê kim cương có tiếng. Trong các buổi chiêu đãi, mụ bàn
bạc về kim cương một cách thành thạo với những mệnh phụ trong đoàn ngoại giao
và khách mời. Mai Anh thường đeo một viên kim cương lớn ra ngoài và luôn chuyển
nữ trang kim cương thành bộ sưu tập lớn. Theo một số người thì mụ ta có bộ sưu
tập về kim cương hạng nhất Châu Á về số lượng lẫn chất lượng.
Nguồn thu nhập quan trọng của Thiệu
là buôn lậu – cả trong lẫn ngoài Việt Nam. Kim loại vụn, đồng, sắt, đặc biệt đồng
là món hàng xuất khẩu béo bở nhứt. Đồng là phần còn lại của những viên đạn đại
bác bắn đi. Sắt là tàng tích của xe tăng, xe vận tải, máy bay bị hư hại trong
chiến tranh. Kim loại vụn lúc đó là mặt hàng đắt giá trên thị trường, đặc biệt
là tại Nhựt. Giá thép tăng cao, 1 triệu lính bắn biết bao nhiêu đạn dược? Họ
dùng hỏng bao nhiêu xe tăng, xe vận tải, xe jeep, máy bay, điện đài, máy đánh
chữ?...Trong lúc Mỹ rút đi, bỏ chúng lại chiến trường, được thu gom vào kho sắt
vụn và bắt đầu cuộc đời mới, là vật làm ra tiền cho Thiệu.
Bản thân việc buôn lậu thì đơn giản,
cần ít người nhúng tay. Kẻ nào nhúng tay đều có mang ơn nghĩa Thiệu. Chính vào
giai đoạn nầy của cuộc làm ăn, Thiệu mới gọi đến những tướng tá vốn mắc nợ ông
ta về ân nghĩa. Trả ơn thật đơn giản: ‘Các anh hãy quay mặt đi đúng lúc và ra lịnh
cho thuộc hạ cũng làm như thế’ .
Kim loại phế thải chở bằng xe nhà
binh, phủ kín bạt để tránh những cặp mắt tò mò. Điểm chở hàng thường là cảng
Sài Gòn, tay Tổng thống cũng dễ dàng đòi hỏi các viên chức ở đây quay mặt chỗ
khác. Tàu chở thuê đăng ký quốc tịch Pa-na-ma (Panama), thủy thủ người Nam Triều
Tiên. Ra đến biển khơi thì các tài phiệt Mỹ mới nhúng tay vào.
Mai Anh đích thân lo việc lấy tiền
hàng. Lý Long Thân thì sắp xếp các chi tiết tẩy xóa dấu vết tham nhũng ở ngân
hàng Đài Loan, Hồng Kông, Xingapore. Mai Anh thỉnh thoảng dùng lý do che đậy là
đi thăm con ở Châu Âu để bỏ tiền vào ngân hàng hay biến nó thành đồ nữ trang.
Trong một chuyến đi như vậy năm 1972, Mai Anh đã mua một vila ở Thụy Sĩ.
Việc buôn lậu ra
nước ngoài đáng trách nhưng ít gây hậu quả. Buôn lậu trong nước mới gây chết
chóc, kéo dài chiến tranh và giúp sức trực tiếp cho Việt Cộng. Hàng không Việt
Nam (Air Việt Nam) từ Sài Gòn bay đến 11 thành phố Châu Á nằm dưới quyền điều
khiển của Trung (con trai của Trung là chồng con gái của Thiệu), các khoang chứa
hàng của các máy bay Air Việt Nam từ Tokyo, Hồng Kông, Singapore về đều chất đầy
hàng: rượu, thuốc lá, son phấn, hàng điện tử, cúc áo, đồ dùng phòng ăn.v.v… hầu
hết các thứ nhét lọt qua khoang chở hàng đều có mặt trên các chuyến bay phản lực
về Việt Nam, được biết là đều theo chỉ thị của vợ Thiệu. Hàng về, binh sĩ Sài
Gòn bao quanh máy bay đông nghẹt, họ bốc xuống xe nhà binh những thùng rượu
Pháp, hàng Nhựt, Hồng Kông… trước con mắt của khách nhìn ra cửa sổ.
Sự tham nhũng của Thiệu đặc biệt có hại
cho Việt Nam kể từ 1972 về sau, khi Nam Việt Nam chệnh choạng trên bờ vực phá sản.
Viện trợ của Mỹ giảm, giá hàng lại tăng, Thiệu, bạn bè và gia đình hắn ta ngày
một giàu. Dân chúng thì mất lòng tin ở Tổng thống của họ. Đến giữa tháng 4/1975,
khi Thiệu bước sang năm thứ 10 làm quốc truởng Nam Việt Nam thì sức ép đã quá lớn
rồi. Vấn đề không còn là Thiệu có ra đi hay không mà phải ra đi khi nào và như
thế nào.
Chỉ có Martin là không muốn Thiệu ra
đi. Theo lời của một số người trong đám thân tín của viên đại sứ Mỹ Martin thì
Martin cho rằng: ‘Thiệu là Tổng thống duy nhứt mà chúng ta (Mỹ) kiếm được’. Cái
mà Martin hy vọng là Thiệu thương lượng với Hà Nội để tìm kiếm hòa bình. Martin
mất không biết bao nhiêu thời gian để thuyết phục Thiệu về việc nầy. Như vậy là
Martin muốn Thiệu quỳ xuống van xin thương lượng, để Hà Nội và Việt Cộng nhổ nước
bọt vào mặt Thiệu. Thiệu không chịu và chiến tranh cứ kéo dài…>>.
Ngoài báo Phương Tây nói chung, báo chí Mỹ nói
riêng, Chính giới Mỹ, trong đó có Tổng thồng Mỹ Nixon và tướng VNCH Nguyễn Cao
Kỳ, đều viết trong hồi ký của mình, thừa nhận sự bất tài, thất đức của những “kẻ
cầm dấu chế độ” VNCH, vậy hà cớ gì lớp trẻ lại cố nói tốt cho một chế độ chưa hề
tốt?!
Ai
được đọc “55 ngày đêm chế độ Sài Gòn sụp
đổ, nhất là đọc chương “kẻ cầm đầu chế
độ” Việt Nam Cộng hòa của Alen Dowson ít nhiều sẽ có cảm nhận:
Mỹ tham chiến
và bao cấp cho Việt Nam Cộng hòa là sai lầm nghiêm trọng: Nhận đỡ đầu cho một
chế độ tham nhũng thối nát, không được lòng dân, sụp đổ là tất yếu, chỉ sớm hay
muộn mà thôi. Mỹ và Đồng minh rút quân,“Việt Nam hóa chiến tranh” là lối thoát
duy nhứt mà chính phủ Mỹ buộc phải lựa chọn.
Cầm
đầu “Việt Nam Cộng hòa” tham nhũng thúi nát dẫn đến sụp đổ như thế, Cầm đầu
“Công hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” (Đảng CSVN) thì sao? – đây là việc “nhạy cảm”,
xin bạn đọc cho nhận xét, còn người viết bận đi rước cháu ngoại học thêm, xin dừng
bút ở đây.
23/7/2017
T.T