Giáo sư Trần Ngọc Vương |
PNO - Hơn bốn mươi năm qua, Trung Quốc là thế lực duy nhất đe dọa độc lập
chủ quyền, xâm phạm lãnh thổ nước ta. Giáo sư
Trần Ngọc Vương - người đã miệt mài nghiên cứu về Trung Quốc từ tuổi đôi mươi
đến nay - nhận định: “Người Trung Quốc, đặc biệt là giới cầm quyền, luôn tin
vào não trạng của mình. Họ luôn giương đông kích tây, trong đầu luôn có các
loại mưu kế. Thậm chí, họ còn tưởng tượng các tình huống có thể xảy ra và luôn
có sẵn “bài” để đối phó với từng tình huống tưởng tượng đó. Đây là đặc điểm
kinh hoàng nhất của giới chính trị Trung Quốc”.
Báo Phụ Nữ TPHCM đã có cuộc trò chuyện với ông.
Họ muốn nhanh chóng hiện thực hóa “Trung Quốc mộng”
Phóng viên: Năm 2009, Trung Quốc xuất bản cuốn Trung Quốc mộng,
tác giả là đại tá Lưu Minh Phúc, một giáo sư của Đại học (ĐH) Quốc phòng Bắc
Kinh. Những hành vi quấy phá của Trung Quốc ở Biển Đông cũng tăng dần đều từ
năm 2009. Nhân vật này có vai trò gì trong việc Trung Quốc đẩy mạnh các hành vi
phi pháp đó không, thưa giáo sư?
Giáo sư Trần Ngọc Vương: Có hai cuốn sách của Trung
Quốc cần được nhắc đến, là Tô tem sói (Lang đồ đằng, tác giả Khương
Nhung) và Trung Quốc mộng. Cả hai cuốn đều được quảng cáo và phát hành
hết sức rầm rộ. Tô tem sói được viết dưới dạng tiểu thuyết nhưng thực
chất đó là khảo cứu mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa.
Còn Trung Quốc mộng là hướng tuyên truyền
của quân đội. Hai cuốn sách tuyên truyền hai hướng khác nhau. Xưa nay Trung
Quốc là vậy, luôn đưa ra khả năng này, khả năng kia. Trung Quốc mộng vẫn
trên tinh thần vừa thừa tiến, vừa uốn nắn tinh thần của Tô tem sói. Song,
viết Trung Quốc mộng, Lưu Minh Phúc mới chỉ tiếp cận một góc tham vọng
của nhà cầm quyền. Đọc kỹ thì góc tuyên truyền của Lưu Minh Phúc là duy trì cảm
hứng chủ đạo trong tư tưởng của Đặng Tiểu Bình “thao quang dưỡng hối” (che đi
khoảng sáng, nuôi dưỡng cái tù mù, không muốn minh bạch, rõ ràng với thế giới)
và “trỗi dậy một cách hòa bình”.
* Với xuất phát điểm không ít khó khăn, việc
Trung Quốc vươn lên, trở thành quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới
thực sự là kỳ tích. Trong “thiết kế” của Đặng Tiểu Bình, “trỗi dậy một cách hòa
bình” là một trong những cảm hứng chủ đạo. Nhưng những gì Trung Quốc hành xử
trên Biển Đông trong hơn 10 năm qua cho thấy rõ là họ đã cách ly từng bước
“thiết kế” của ông Đặng?
- Sau hai thập niên tham gia định hình những
chính sách quan trọng nhất của Trung Quốc và được ủng hộ, nhà tư tưởng của
Trung Quốc hiện nay là Vương Hỗ Ninh. Đây là một nhà nghiên cứu chính trị
chuyên nghiệp, hiện là một trong bảy Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng
sản Trung Quốc. Ông ta thiết kế một đường hướng khác Đặng Tiểu Bình, vừa tiếp
tục nhưng lại vừa điều chỉnh, thay đổi. Từ năm 2007, trên đỉnh cao nhất của
nhóm làm chiến lược, đã bắt đầu thay đổi. Sự thay đổi từ Giang Trạch Dân, qua
Hồ Cẩm Đào, tới Tập Cận Bình dựa vào Vương Hỗ Ninh là sự điều chỉnh có kế
hoạch. Vương Hỗ Ninh thấy, phát triển theo cách Đặng Tiểu Bình đề nghị thì
chậm. Ông ta muốn “đi” nhanh hơn, muốn thu hoạch nhiều hơn từ nhiều hướng khác
nhau, do đó chấp nhận sự đa tạp của tình hình.
Người Trung Quốc, đặc biệt là giới cầm quyền
luôn tin vào “trực giác định hướng” của mình. Họ thường giương đông kích tây,
trong đầu luôn có các loại mưu kế. Thậm chí, họ còn tưởng tượng các tình huống
có thể xảy ra, và luôn có sẵn “bài” để đối phó với từng tình huống tưởng tượng
đó. Đây là đặc điểm phức tạp nhất để hiểu giới làm chính trị cực quyền, thượng
đỉnh của Trung Quốc.
Con người không được mang ý thức về sinh mệnh
* Mô hình ông vua - thiên tử độc nhất thế giới, cùng căn tính sói của dân tộc (như họ tự nhận) khiến chính quyền của Trung Quốc có những đặc điểm gì riêng biệt, thưa giáo sư?
- Mô hình quyền lực tối cao ở Trung Quốc hầu như
không có yếu tố tôn giáo mà chỉ duy trì biểu tượng thần quyền (đến một ngưỡng
cần thiết cho tuyên truyền ở một mức độ nhất định). Nói cho cùng, mọi tôn giáo
đích thực đều có giá trị cứu rỗi cho con người, kể cả những người cầm quyền tối
thượng (như việc hoàng đế Napoléon Bonaparte vẫn cần sự có mặt của Giáo hoàng
trong lễ lên ngôi).
Nhưng thể chế truyền thống của Trung Quốc thì khác,
hoàng đế lên ngôi, tự lập đàn tế trời, tự công bố với thiên hạ, hành xử hoàn
toàn nhân danh trời và đồng nhất trời với bản thân. Quyền lực của hoàng đế
Trung Quốc không chịu “lép” bởi quyền lực tôn giáo, không có tín ngưỡng, cho
nên mục đích của thể chế ấy cũng như phương tiện của họ là tính hiện thế. Tinh
thần cực quyền của họ thể hiện rất rõ.
Tô tem sói và Giấc mơ Trung Quốc (Trung Quốc mộng) là hai hướng tuyên truyền phục vụ tham vọng bá chủ thế giới của nhà cầm quyền Trung Quốc |
Người Trung Quốc có những chuyện kỳ dị mà nếu không phải người cầm quyền
tối cao, không phải là những người tột cùng tham vọng thì không thể hiểu được,
hoặc không đủ sức để đảm đương gánh nặng tâm lý ấy. Những người như Phạm Lãi
(công thần của Câu Tiễn, ông vua nước Việt tại vị từ năm 496 - 465 trước Công
nguyên) xưa hay Chu Ân Lai hiện đại đều không thể đeo đẳng mẫu người đó.
Sở dĩ Phạm Lãi sống được là do ông ta không theo mô hình đó (sau khi không
khuyên được Câu Tiễn, Phạm Lãi bỏ đi biệt tích). Sở dĩ trong mấy trăm người
từng là lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Trung Quốc bị thanh trừng, một mình
Chu Ân Lai tránh được, là bởi ông ta thuyết phục Mao Trạch Đông chỉ ở một điểm,
đó là tiếng “nói thầm” luôn được nhắc đi nhắc lại: “Tôi không tranh, không bao
giờ định tranh vị trí độc nhất với ông”.
Đặc điểm quyền lực bằng mọi giá của thiết chế chuyên chế này cũng là đặc
điểm hàng đầu. Một đặc điểm không nơi thứ hai nào có nữa, đó là sự coi rẻ, vô
hiệu hóa mạng người, vô nghĩa hóa thân phận mỗi người và bất cứ cá nhân nào.
Không cần nói đến những chuyện cả thế giới hiện nay đang lên án, chỉ cần nói về
nguồn gốc chiếc bánh bao trong lịch sử của họ: tiến xuống phía Nam là khó khăn
lớn với những người sống ở Trung Nguyên. Cuộc hành quân của họ vấp phải những
sơn hệ - thập vạn đại sơn, đặc biệt là Ngũ Lĩnh.
Người Trung Quốc luôn e ngại khi phải vượt qua năm ngọn núi đó. Đánh phương
Nam là một trong những nỗi kinh hoàng cay cực của lính phương Bắc. Người lính
của họ được giáo dục, tuyên truyền chuẩn bị tinh thần sẵn sàng giết, đồng thời
cũng sẵn sàng chết. Cái chết thì được tô vẽ bằng chủ nghĩa anh hùng, “da ngựa
bọc thây”, “nhẹ tựa lông hồng”. Còn đối thủ, đối phương thì cần bị “ăn gan,
uống máu”.
Để “Nam chinh”, vì không biết phương tiện, điều kiện ra sao nên họ phải
tích trữ lương khô mang theo. Nấu ăn cũng khó, nên loại bánh phổ biến họ làm là
lương khô, vừa gọn nhẹ, vừa dễ sử dụng. Ngay từ thời ấy, họ đã giáo dục cho
người lính phương Bắc của họ tinh thần vừa căm thù, vừa quyết tâm: ăn bánh “man
đầu” (tức bánh bao) là ăn đầu người Nam man, tức cộng đồng Bách Việt.
Trong lịch sử chiến tranh ở Trung Quốc xưa, số binh lính thường được huy
động lên tới vài chục đến vài trăm vạn. Vậy mà, như một nhà thơ đời Đường đã
“ráo hoảnh”: “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” - xưa nay ra trận mấy ai về.
Phong cách thực thi chiến tranh nổi tiếng của Trung Quốc, nổi tiếng từ xưa trên
toàn thế giới, là “chiến thuật biển người”, “lấy thịt đè người”.
Mạng người, bất kể là mạng của ai, trừ người nắm quyền tối cao, đều có thể
trở nên vô nghĩa. Kể từ ngày lập nên nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm
1949, nghĩa là “thời bình”, không loạn lạc, không chiến tranh, mà theo nhiều
nhà nghiên cứu cả trong lẫn ngoài Trung Quốc, số người chết không phải tự
nhiên, mà chết do “nhân tai” - lỗi của người cai trị - lên đến cả trăm triệu
người. Riêng nạn đói xảy ra vào những năm 1958-1961 trong và sau phong trào Đại
dược tiến (đại nhảy vọt), theo nhiều tài liệu khác nhau, đã làm chết từ 37 -
43,5 triệu người.
* Không chỉ nghiên cứu Trung Quốc, giáo sư còn có nhiều thời gian giảng dạy
ở ĐH Bắc Kinh. Đặc điểm nào của con người sống trên đất đó khiến ông nhớ nhất?
- Thân phận con người! Sau hơn 20 năm nghiên cứu Trung Quốc, năm 1998, lần
đầu tiên, tôi mới có những ngày sống trên đất nước này. Tôi sang dạy ở trường
đại học lớn nhất của họ với tư cách là chuyên gia hàng đầu, hưởng bậc lương rất
cao. Nhưng cách xử sự của họ thì… kể ra cho hết, thật lắm chuyện khôi hài.
Nói vậy để thấy rằng, một vị
trí như mình, khách mời (mà là “quốc khách”, vì bấy giờ tôi sang dạy bằng giấy
mời của Quốc vụ viện, đóng dấu quốc huy hẳn hoi) như mình mà còn vậy.
Ở Bắc Kinh, quan sát thì cảm nhận rất rõ rằng, con người ở đó không có ý thức về sinh mệnh hay thân phận |
Tôi dạy ở Bắc Kinh, sống ở Bắc Kinh và quan sát thì cảm nhận rất rõ rằng,
con người ở đó không có ý thức về sinh mệnh hay thân phận. Cái gọi là “nhân
thân” ở đây vô nghĩa. Không ai quan tâm, không ai muốn, không ai cần biết anh
là ai; anh cũng chỉ như cái cây, ngọn cỏ ven đường. Họ chỉ cần biết người đó là
da đen hay da trắng, là người giống họ hay không. Đó là lần đầu tiên tôi đến
một cộng đồng mà cảm giác sự vô nghĩa của thân phận cá nhân rõ ràng đến
vậy.
Bí mật về cuốn kỳ thư
* Ông tiếp xúc với cuốn Phản kinh, chính là trong
chuyến đi đó?
- Sang Bắc Kinh, tôi đi lang thang xem sách thì cuốn sách có tiêu đề Phản
kinh đập vào mắt. Đó là lần đầu tiên tôi biết có cuốn đó. Tôi cầm lên, thấy
chữ khó đọc, giấy xấu, tên tác giả lại không đọc được, chữ rất lạ (họ Triệu thì
đọc được), lại của một nhà xuất bản (NXB) hầu như không có tên tuổi gì - NXB Nội
Mông.
Tôi đọc phần giới thiệu, họ viết rất rõ: “Lịch đại thống trị giả hành nhi
bất ngôn dụng nhi bất tuyên đích kỳ thư”. Có nghĩa, đây là cuốn kỳ thư mà kẻ
thống trị các đời làm theo nhưng không nói, dùng nhưng không công bố. Tôi giật
mình, sách này là sách cấm, riêng phần giới thiệu đã thấy kinh hoàng. Hơn một
ngàn năm, sách chỉ dành cho tầng lớp cao nhất của bộ máy cai trị. Dưới thời
Minh, Thanh, ai đọc sách cấm mà bị phát hiện là phạm tội đại hình, bị giết. Và
đó cũng là lần đầu tiên, người Trung Quốc biết đến Phản kinh một cách
rộng rãi.
Tôi chép tên tác giả ra giấy mang đi hỏi một giáo sư của ĐH Bắc Kinh, ông
này không biết. Ngày ĐH Bắc Kinh tổ chức kỷ niệm 100 năm thành lập ở Đại lễ
đường nhân dân, riêng ô tô chở chuyên gia của họ là 80 xe. Ông ấy mang đi hỏi
khắp, cũng không ai biết, vì người giỏi chữ Hán nhất Trung Quốc cũng chỉ biết
đến 85% lượng chữ. Ông rất tức, dành mấy ngày để tra các loại từ điển thì tìm
được tên tác giả là Nhuy (chữ Nhuy thực ra là phần đuôi của một từ có tính chất
từ láy nên hiếm gặp). Tác giả đỗ tiến sĩ thời Trung Đường. Viết xong bộ sách
này, Triệu Nhuy vào gặp vua một lần, dâng cho vua bộ sách và từ chối tất cả
những lời ban khen, phong tặng, xin lui về quê rồi biệt tăm không ai
biết.
Từ đời Đường, qua Tống, Nguyên, Minh, Thanh, cuốn sách ấy chỉ được nằm
trong bí thư các (gác chứa sách) của vua, cũng không đưa xuống tứ khố toàn thư.
Đến tận đời Càn Long, ông mới sai những đại học sĩ sao chép ra vài bản, phân
hạng mục trong tứ khố toàn thư nhưng vẫn không lưu hành ra ngoài. Đích thân Càn
Long đề tựa cho cuốn sách và đổi tên. Đại học giả nổi tiếng nhất của đời Càn
Long là Kỷ Hiểu Lam hiệu đính cuốn sách. Và văn bản cuối cùng đó chính là văn
bản mà NXB Nội Mông in.
* Vai trò, tính chất của Phản kinh đối với nhà cầm
quyền Trung Quốc là gì thưa giáo sư?
- Tôi đọc và thấy tác giả đã cảnh báo rất đích đáng. Bộ sách này không phải
nhà cầm quyền tối cao nào cũng đọc được, mà phải là người cực giỏi, nếu không
thì rất tai hại. Vì đó là những thủ đoạn kinh khủng nhất của giới cầm quyền.
Cũng vì thế mà khi từ Bắc Kinh về, tôi đã tìm mọi cơ hội để dịch cuốn sách đó,
nhưng tiếc là hầu như không ai quan tâm. Giờ thì đã có bản dịch rồi.
* Khi tiếp cận Phản kinh, cảm giác của
ông ra sao?
- Tôi sốc. Triệu Nhuy kể theo lối nửa hư nửa thực, có nhiều yếu tố như
Trang Tử, huyễn hoặc biến ảo, thật giả lẫn lộn. Anh đọc, anh tin có thật thì nó
là thật, bởi những chuyện ông ấy kể không ai xác minh được. Tôi nhớ nhất câu
chuyện kể về Phạm Lãi, với những chi tiết rất lạ. Việc Phạm Lãi bỏ đi, có những
lời đồn thổi khác nhau. Nào là ông “cộng Tây Thi phiếm chu du Ngũ hồ” (cùng đại
mỹ nhân Tây Thi rong ruổi Ngũ hồ), nào là lời đồn ông ấy đến một nơi, lập nơi
đó thành Đào Nguyên rồi trở thành một thương gia vô cùng giàu có.
Và Triệu Nhuy kể theo hướng này: Phạm Lãi sống độc lập, không theo một “chủ
mới” nào. Ông có ba đứa con. Đứa thứ hai sang nước Sở, ở đó đã phạm tội đại
hình, bị bắt giam, xử chết. Phạm Lãi có một người bạn ở nước Sở rất được vua Sở
tin nghe, nên ông nghĩ đến việc cầu cứu bạn. Phạm Lãi chuẩn bị một lượng tiền
vàng lớn cho việc gặp người bạn kia.
Con cả và con út của Phạm Lãi đều đòi đi. Ông muốn giao việc cho con út
nhưng người con cả bảo nó lớn hơn, khôn hơn, nó lại là trưởng, chịu trách nhiệm
gia tộc nên phải để nó đi. Phạm Lãi không đồng ý, cậu cả dọa tự tử vì cho rằng
bố không tin mình là việc ảnh hưởng đến thanh danh, và Phạm Lãi
phải nhượng bộ.
Người bạn của Phạm Lãi nhận thư, trả lời sẽ giúp. Cậu cả về quán trọ chờ.
Ông kia vào nói với vua: “Việc thi hành những án lớn là chấn động đến cả tâm
linh, cả thiên hạ; nếu làm phúc, đại xá được thì rất tốt”. Vua nghe. Hôm sau
ban bố đại xá thiên hạ. Cậu cả nghe tin đó lẳng lặng mang hết tiền về quán trọ,
không vào gặp ông kia nữa.
Ông bạn Phạm Lãi chờ mấy ngày không thấy cậu ta quay lại, biết ngay cậu này
tiếc của (trong thư, Phạm Lãi viết rõ việc cảm ơn). Ông ta thay đổi cách ứng
xử, vào nói lại với vua: “Hôm trước, tôi có tâu với chúa công việc đại xá, giết
nhầm người đúng là oan, nhưng không trừng phạt đúng người phạm tội đại nghịch,
đại ác cũng là họa”.
Và ngày hôm sau, cậu cả đi nhặt xác em đưa về. Về đến nhà, đã thấy Phạm Lãi
chuẩn bị đầy đủ để làm ma cho đứa con thứ hai. Cậu cả hỏi vì sao cha biết, ông
không trả lời, tỏ ra buồn rầu. Sau, ông cho một số người tâm phúc nhất biết,
khi họ hỏi “thằng cả đi, thằng hai còn chết, thì làm sao thằng út đi mà cứu
được?”. Phạm Lãi nói: “Khi tôi buộc phải cho thằng cả đi, tôi đã biết nó sẽ
thất bại và thằng thứ hai phải chết. Là vì thằng cả sống với tôi từ thuở hàn
vi, nó biết khổ, biết nhục, biết thiếu tiền là như thế nào, nên nó tiếc tiền.
Còn thằng út sinh sau, khi tôi đã giàu, nó lớn lên trong nhung lụa nên nó sẽ
mang ngay tiền đến nhà ông bạn tôi mà không do dự”.
Người ta lại hỏi, bạn ông như thế là không chí tình? Phạm Lãi trả lời: “Ông
ấy biết, nếu thằng thứ hai không gặp biến cố này thì kiểu gì nó cũng là thằng
hư hỏng, nên phải có sự trừng phạt. Ông ấy cũng biết thằng anh tham lam, bỉ
lậu, nếu không có bài học xương máu đúng nghĩa này thì nó sẽ không thể tỉnh.
Tôi nhờ ông ấy là quan hệ tình thân, nhưng còn cái gọi là thiên lý, ông ấy cũng
không vì tình thân mà làm trái lẽ trời”. Tất cả mọi người nghe xong đều ngỡ
ngàng, vì mọi sự xảy ra như thế nào, từ lâu đã nằm trong sự tính toán của Phạm
Lãi.
Khi đọc xong chuyện đó, tôi thấy kinh hoàng! Mới thấy tư duy của Trung Quốc
lạ và biến ảo khôn lường.
* Cảm ơn giáo sư!
Thế kỷ XIX, dưới thời nhà Thanh, Trung Quốc bị tám cường quốc của thế giới
đánh phá, chia nhau đô hộ. Trung Quốc trở thành nước bán thuộc địa. Họ gọi đó
là thế kỷ quốc nhục, bị xâu xé, các khu vực hay thành phố bị chia thành các khu
tô giới (là phần đất nằm trong một quốc gia có chủ quyền nhưng lại bị một thực
thể khác quản lý, Thượng Hải là trường hợp điển hình). Do đó, họ phải khẳng
định lại khát vọng thống trị thế giới chứ không bao giờ chịu để người khác
thống trị.
Đội ngũ các nhà nghiên cứu của họ đã nhìn nhận lại toàn bộ lịch sử của cả
Trung Quốc và lịch sử thế giới. Họ nhận ra, tám cường quốc chia nhau xâu xé họ
chủ yếu là đánh vào từ đường biển. Và họ cũng đủ tri thức để dần dần nhận ra
được rằng, từ thế kỷ XVI, quốc gia nào muốn phát triển chủ nghĩa tư bản, trở
thành cường quốc kinh tế, trở thành thực dân thì trước hết phải là cường quốc
biển. Đây cũng là một trong những lý do khiến Trung Quốc quyết thực hiện bằng
được dã tâm biến Biển Đông thành ao nhà của họ.
28/08/2020
Uông Ngọc (thực hiện)