06 septembre 2020

Chuyện kể về Hồ Xuân Hương – Đà Lạt




 Bài 1 : Chuyện kể về Hồ Xuân Hương – Đà Lạt


1. Nguồn gốc của Hồ Xuân Hương

Hồ nước lớn ở trung tâm thành phố Đà Lạt không phải là một hồ nước tự nhiên, mà là một hồ nhân tạo. Vào năm 1944, trong một bài phỏng vấn của tạp chí Indochine, ông Cunhac (Tỉnh trưởng Tỉnh Lang Bian trong thời gian 1917- 1920) cho biết như sau :
Hình 1: Trên Hồ Đà Lạt (1930)


“Hồ được hình thành tương đối gần đây. Thực vậy, do sáng kiến của tôi, hồ được làm vào năm 1919, do kỹ sư công chánh Labbé thực hiện. Vào khoảng 1921-1922, theo lệnh của Công sứ Garnier, đập đất cũ chống đỡ con đường đã được nâng cao và kéo dài thêm và năm sau đó, một cái đập thứ hai được xây dựng ở hạ lưu, như vậy hình thành hai hồ nước. Do không có đập tràn (déversoir), cả hai đập bị vỡ do những cơn giông dữ dội của trận bão tháng 5 năm 1932; ngay sau đó chúng được làm lại trong cùng những điều kiện như trước. Con đập bằng đá được xây dựng vào khoảng 1934-1935, xa hơn một chút về phía hạ lưu so với các con đập cũ.”[1]

Thật ra, sáng kiến xây dựng một hồ nước không phải bắt nguồn từ Cunhac. Ngay từ đầu thế kỷ 20, người phụ trách công chánh (travaux publics) ở Đà Lạt là ông Rousselle đã trình bày dự án này cho công sứ Phan Rang là Odend’hal (năm 1902, Dalat trực thuộc tỉnh Phan-Rang)[2].




Kiến trúc sư Louis-Georges Pineau - tác giả của Đồ án chỉnh trang và mở rộng Đà Lạt năm 1933, đã đánh giá tầm quan trọng của hồ nước này như sau:

“Hồ nước là trung tâm và là sức hấp dẫn của Đà Lạt. Không có hồ nước thì khi đi ngang qua thành phố, thung lũng Cam Ly chỉ là một vùng trũng sình lầy. Baguio – trạm nghỉ dưỡng vùng cao của Philippines, đã hiểu quá rõ tầm quan trọng của nước trong một phong cảnh miền núi và trong một thành phố nghỉ dưỡng, nhưng đành phải bằng lòng với Công viên Burnham (Burnham Park) của một bồn trũng hình chữ nhật - thua xa vẻ đẹp của Hồ Đà Lạt.”[3]

Trong quá trình hình thành và phát triển thành phố, hồ nước này được gọi bằng nhiều cái tên khác nhau. Lúc đầu, người Pháp chỉ gọi nó bằng cái tên đơn giản : Lac (Hồ) hoặc Lac de Dalat (Hồ Đà Lạt) – như trong Hình 1 (trích từ cuốn Petit Guide touristique của André Bon, xuất bản tại Hà Nội năm 1930). Về sau, khi có thêm nhiều hồ nước khác, nó được gọi tên là Hồ Lớn (Grand Lac), như chúng ta thấy ghi trong bản đồ 1/5.000 năm 1952 (xem hình 2):
Hình 2: Trích bản đồ 1/5.000 (1952) của Nha Địa Dư Đông Dương

Vào thời điểm đó, đã có thêm nhiều hồ khác như : Hồ Saint-Benoit (Lac Saint-Benoit, tức là Hồ Mê Linh sau này), Hồ Than Thở (Lac des Soupirs), …

Mãi đến năm 1953, Hồ Đà Lạt mới đổi tên thành Hồ Xuân Hương (xuân hương : hương mùa xuân). Theo nhiều cư dân sống lâu năm ở địa phương, nhà văn Nguyễn Vỹ - lúc đó là Chủ tịch Hội đồng Thị xã, đã đặt tên Xuân Hương cho Hồ Lớn. Rất tiếc là cho đến nay, chưa tìm được bằng chứng để xác nhận thông tin truyền miệng này.


2. Sự nhầm lẫn của ông Ely Cunhac [4]

Cũng trong bài phỏng vấn nói trên, ông Cunhac nói: “Tại vị trí của hồ nước, dòng suối nhỏ của bộ lạc Lat chảy ngang qua và người ta gọi nó là “Da-Lat” (Da hay dak trong tiếng Thượng có nghĩa là nước); rồi vì một lý do nào mà tôi không thể tự lý giải được, người ta đã thay cái tên đó bằng một cái tên Việt Nam: Cam-ly”. Sự nhầm lẫn của Cunhac đã khiến cho trong một thời gian dài, nhiều người lầm tưởng Cam Ly là một cái tên Việt Nam. [5]

Nhưng tài liệu của các nhà thám hiểm đầu tiên cũng như của các đoàn khảo sát người Pháp đã từng  đặt chân đến cao nguyên Lang-Bian đều xác nhận vào hai thập niên cuối thế kỷ 19, vùng Đà Lạt ngày nay là một vùng đất hoang vu. Người dân bản địa tập trung vào các buôn làng nằm trên các dòng suối của Sông Da Deung (có khi phiên âm là Da Dong, Da Dung, Da Dâng, …) – nhánh chính của  Sông Đồng Nai ở thượng lưu. Hơn nữa, không có tài liệu nào xác nhận tên của dòng suối chảy ngang Đà Lạt là Da-Lat hay Dalat.

Trong khi đó, nhiều tài liệu cho thấy Cam Ly có nguồn gốc từ một danh xưng của người bản địa. Năm 1881, khi mô tả các phụ lưu của sông Da Deung, Paul Néis ghi tên dòng sông đầu tiên ở tả ngạn là : “Sông Da-komli : hướng chung: Đông Bắc – Tây Nam, chiều rộng 25 mét; nền cát” (hình 3). [6] Trong bài bút ký hành trình kể lại chuyến thám hiểm năm 1893, bác sĩ Yersin viết: “Giữa Lao-Gouan và Rioung, phải đi bộ già một ngày đường. Người ta đi qua các làng Ya, Con Taét, Dou-ouine (trên dòng Da-Kemlé) và Ea.” [7]
Hình 3: Trích tường trình của bác sĩ Néis

Hình 4:  Trích bản đồ của Le Chemineau

Nhìn vào tấm bản đồ (hình 4) in kèm theo bài viết của Le Chemineau (bút hiệu của Constantin, Thanh tra Công chánh Đông Dương) công bố năm 1916 trên Revue Indochinoise chúng ta thấy những cái tên như Da Kamly (Sông Cam Ly), Cascade du Kamly (Thác Cam Ly)[8]. Vì vậy Suối Kamly chảy ngang qua Đà Lạt hiển nhiên là một cái tên của người bản địa, không phải là một cái tên Việt-Nam-hóa. 


3. Đầu nguồn của Suối Cam Ly :


Hình 5: Hồ Đà Lạt nhìn từ một cửa sổ của khách sạn Langbian Palace

Suối Cam Ly (nghĩa là dòng nước làm nên Hồ Xuân Hương) không bắt nguồn từ dãy núi Lang Bian mà xuất phát từ dãy đồi núi nằm ở phía đông-nam dãy Lang Bian - với độ cao trung bình từ 1.600 đến 1.700 mét, trong đó hai ngọn núi cao nhất là Lap Bé Nord (Lap Bé Bắc) và Lap Bé Sud (Lap Bé Nam). Có lẽ cũng vì lý do đó, khi xây dựng khách sạn Langbian Palace, các nhà quy hoạch và kiến trúc người Pháp đã chọn vị trí trên một ngọn đồi để từ đó người ta có thể nhìn thấy cả hai ngọn núi Lap Bé như trong hình 5 (đăng trên tuần báo L’Illustration số N° 4172, năm 1923) 

Hình 6: Lap Bé Bắc (Hòn Ông)
Hình 7: Lap Bé Nam (Hòn Bồ)


Ngày nay, du khách có thể nhìn thấy hai ngọn núi này nếu đi bộ xung quanh Hồ Xuân Hương, nhưng khó nhìn thấy cả hai cùng một lúc. Ngọn núi dễ nhìn thấy nhất là Lap Bé Bắc cao 1.732m, người dân thường gọi tên là Hòn Ông. Nếu đi dọc theo bờ phía nam của hồ Xuân Hương, chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy ngọn núi này (hình 6). Ngược lại, nếu đi men theo bờ phía Bắc của hồ, du khách chỉ có thể nhìn thấy ngọn Lap Bé Nam (cao 1.702m) ở một vài vị trí thích hợp, và cũng chỉ thấy một phần của ngọn núi, bởi lẽ các nhà quản lý đô thị đã “vô tình” cho phép xây một số công trình kiến trúc khá cao che khuất tầm nhìn (hình 7). Người dân thường gọi ngọn núi này là Hòn Bồ. [9]
Hình 8: Hai ngọn núi Lap Bé nhìn từ Cầu Sắt

Hình 9: Trên đường Đà Lạt – Trại Mát
Trước đây khoảng một thập niên, ở vị trí của Cầu Sắt (ngày nay đã được đúc bê-tông), người ta vẫn có thể nhìn thấy cả hai ngọn núi Lap Bé. Đáng tiếc, một phần vì Đà Lạt bị đô thị hóa một cách hỗn loạn, phần khác vì “tầm nhìn” không đủ thông minh của các nhà thiết kế và quản lý đô thị “đời mới”, cái nhìn toàn cảnh (panoramic view, point de vue panoramique) ở địa điểm này đã bị phá vỡ (hình 8).

Thật ra, còn có một số vị trí khác cho phép chúng ta nhìn thấy cả hai ngọn núi Lap Bé, nhất là trên đường Đà Lạt – Trại Mát (quốc lộ 11 cũ, nay là quốc lộ 20). Chỉ có điều này khác với ngày xưa: thay cho màu xanh quyến rũ của  thiên nhiên, giờ đây người ta chỉ nhìn thấy một màu trắng xám ảm đạm, nhợt nhạt của ny-lông… (hình 9)

Điều làm cho bất cứ ai có chút tấm lòng “yêu thương Đà Lạt” phải lo lắng là : trong khi các nhà lãnh đạo “quyết tâm” bám chặt dự án nhồi nhét một tòa nhà 10 tầng lên đỉnh ”Đồi Dinh Thị trưởng”[10] để thể hiện chủ trương “bê-tông hóa” bằng bất cứ giá nào thì ở đầu nguồn của Sông Cam Ly, hai ngọn núi Lap Bé (tức Hòn Bồ và Hòn Ông) đã và đang bị tấn công không chút thương xót. Không cần đi đâu xa, độc giả chỉ cần lên mạng Internet nhìn ảnh chụp vệ tinh hai ngọn núi này, cũng có thể cảm nhận được sự xót xa trước tình trạng phá hoại môi trường thiên nhiên tàn khốc chưa từng có trong lịch sử phát triển của “thành phố ngàn thông” nổi tiếng này (xem hình 10 và 11).
Hình 10:  Hòn Bồ ngày nay (ảnh vệ tinh)

Hình 11: Hòn Ông ngày nay (ảnh vệ tinh)

Đà Lạt, 25 tháng 8 năm 2020

M.T.L.


GHI CHÚ:

[1] A. Baudrit, “La naissance de Dalat”, Revue Indochine¸ N° 180, 10 Février 1944.

[2] Louis-Georges Pineau, “Le plan d’aménagement et d’extension de Dalat », La vie urbaine n° 49, 1939, p. 42 (note).

[3] L.G. Pineau, op.cit., p. 42.

[4] Trong một số tài liệu, họ tên của Cunhac lại được ghi là Elie-Joseph Cunhac.

[5] Hãn Nguyên, “Lịch sử phát triển Đà Lạt” (1893-1954), xem : Tập san Sử Địa, số 23 và 24 (đặc khảo Dalat), tháng 6-tháng 12 năm 1971, tr. 272.

[6] Cochinchine française, Excursions et reconnaissances, N° 10, Imprimerie du gouvernement, Saigon, 1881, p. 21.

[7] A. Yersin, “Sept mois chez les Moïs”; Variétés sur les pays moïs, Gouvernement de la Cochinchine, Saigon, 1935, p. 173.

[8] Le Chemineau, “Sanatorium du Lang-Bian”, Revue Indochinoise, Mars-Avril 1916, pp. 305-323.

[9] Tên Lap Bé do người Pháp phiên âm, đọc là láp-bê. Theo Địa chí Đà Lạt (2008), ngọn Lap Bé Bắc cao 1.733,7m, ngọn Láp-bê Nam cao 1.709m.

[10] “Sẽ xây dựng khách sạn cao 10 tầng ở khu dinh tỉnh trưởng Đà Lạt”, Tuổi Trẻ Online  14/08/2020: