Luật Sư NGUYỄN
HỮU THỐNG
Theo
cuốn Lịch Sử Trung Quốc Thời Trung Cổ do Hàn Lâm Viện Trung Quốc xuất bản tại
Đài Bắc năm 1978, trong bài “Nghiên Cứu về Lịch Sử và Địa Lý” học giả Hsieh
Chiao-Min nhận định về cuộc Thám Hiểm của
Trung Hoa tại Đại Dương như sau: “Suốt
chiều dài lịch sử, về sự phát triển văn hóa và khoa học, dân tộc Trung Hoa
không tha thiết đến đại dương. Thản hoặc nhà cầm quyền Trung Quốc cũng gửi
những đoàn thám hiểm đại dương đến Nhật
Bản trong các thế kỷ thứ 3 và thứ 2 Trước Công Nguyên, cũng như tại Đông Nam Á,
Ấn Độ và Phi Châu trong thế kỷ 15. Điểm rõ nét nhất là tại Thái Bình Dương có rất ít, nếu không nói là không có, những vụ xâm
nhập quy mô của Trung Quốc” suốt
chiều dài lịch sử (từ nhà Tần thế kỷ thứ 3 Trước C. N. đến nhà Thanh từ thế kỷ
17 đến thế kỷ 20). Chiao-Min Hsieh.
Chinese History Middle Ages: China Academy , Taipei ,
1978, p. 287).
Dưới
đời nhà Tần, cuốn Tần Chí tường thuật rằng năm 211 Trước C.N. Tần Thủy Hoàng sai
một phái bộ gồm hàng ngàn đồng nam đồng nữ (trai gái tân) đi kiếm những dược
phẩm có tác dụng đem lại trường sinh bất tử cho nhà vua tại đảo Đại Châu Bất Tử
trong Đông Trung Quốc Hải. Mặc dầu vậy, Tần Thủy Hoàng không bất tử mà đã chết
một năm sau đó. Và chế độ quân phiệt nhà Tần đã cáo chung sau 15 năm thống trị
(221-206 Trước C.N).
Trong thời Đế Quốc Thứ Nhất đời Tần Hán (First
Empire), những cuộc thám hiểm đại dương tại Đông Trung Quốc Hải và Biển Nhật
Bản không phải để chinh phục vùng Biển
Nam Hoa nơi tọa lạc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đặc
biệt trong thế kỷ 15, từ đời Minh Thành Tổ (Vĩnh Lạc), Đô Đốc Thái Giám Trịnh
Hòa đã 7 lần thám hiểm Tây Dương (Ấn Độ Dương). Và trong 28 năm, từ 1405 đến
1433, đã viếng thăm 37 quốc gia duyên hải đến Ba Tư, Biển Hồng Hải phía tây
bắc, Đông Phi Châu phía cực tây và Đài Loan phía cực đông. Những cuộc thám hiểm này chỉ
đi ngang qua Biển Nam Hoa nhằm khai phá Ấn Độ Dương. Lịch sử Trung Quốc
cũng phê phán những cuộc thám hiểm đại dương đời nhà Minh vì đã làm kiệt quệ
kinh tế đất nước. (The large exploring
expeditions that were to cross the
South China Sea and explore the
Indian Ocean were criticized by the court as poor to (an impoverishment of) the
country. Chiao-Min Hsieh, Ibid, p.
290-291).
Những tài liệu lịch sử nêu trên đã
được phổ biến tại Đại Hội Quốc Tế về Sử Địa Trung Quốc Kỳ I tại Đài Bắc năm
1968 và đã được đăng trong cuốn Lịch Sử Trung Quốc Thời Trung Cổ năm 1978.
Như
vậy theo chính sử Trung Quốc suốt từ thế kỷ thứ 3 Trước C.N. đến thế kỷ 15,
dưới 3 triều đại Tần Thủy Hoàng, Hán
Vũ Đế và Minh Thành Tổ không có tài liệu nào cho biết có các lực lượng hải quân
Trung Quốc đi tuần thám để hành sử và công bố chủ quyền tại Biển Đông Hải, Biển
Nam Hoa hay Biển Đông Nam Á.
Đối
chiếu lịch sử Việt Nam và Trung Quốc, sử sách ghi chép rằng năm 214 Trước C.N.,
sau khi thống nhất Trung Hoa, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư đem quân thôn tính các
nước Bách Việt để chia thành 3 quận: Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (Quảng Tây) và Tượng Quận (Bắc và Trung Việt). (Nước
Việt ta thời đó có nhiều voi: Bà Trưng, Bà Triệu cưỡi voi khởi nghĩa đánh nhà
Hán, nhà Ngô; Trần Hưng Đạo phá quân Nguyên, Quang Trung đuổi quân Thanh cũng
ngồi trên mình voi đánh giặc).
Tuy
nhiên các dân tộc Bách Việt không chịu ách đô hộ tàn bạo của nhà Tần. Họ trốn
vào rừng chiến đấu và giết được Đồ Thư.
Năm
207 Trước C. N. Triệu Đà đánh thắng An Dương Vương, rồi sát nhập Âu Lạc vào
quận Nam Hải để thành lập một quốc
gia độc lập đóng đô tại Phiên Ngung (Quảng Châu) lấy quốc hiệu là Nam Việt
(207-111 Trước C.N.). Qua năm sau Lưu Bang cũng đánh thắng Hạng Võ và thành lập
nhà Hán.
Chữ
“hải” trong quận Nam Hải không có nghĩa là biển mà là vùng đất xa xôi (hải biểu là vùng đất cực xa, Thanh Hải là vùng đât tiếp
giáp Tân Cương và Tây Tạng). Và quận Nam Hải là vùng đất phía cực Nam Trung
Quốc (far-south). Từ nguyên thủy, Biển Nam
Hải có tên là Trướng Hải là vùng biển của tỉnh Quảng Đông, cách huyện Hải
Phong 50 dậm ta (lý) về phía nam (khoảng
25km).
Theo
Tân Từ Điển Thực Dụng Hán Anh xuất
bản tại Hồng Kông năm 1971 “Biển Nam
Hải là vùng biển ven bờ chạy từ Eo Biển Đài Loan tới Quảng Đông” (The
Southern Sea stretches from the Taiwan Strait to Kwantung. A New
Practical Chinese-English Dictionary, Hongkong 1971, p. 121)
Theo
Từ Điển Từ Hải xuất bản năm 1948 thì
“Biển Nam Hoa thuộc chủ quyền
chung của 5 quốc gia là Trung Hoa, Pháp (Việt Nam), Anh (Mã Lai), Mỹ (Phi Luật
Tân) và Nhật (Đài Loan). Do đó Biển
Nam Hải (Southern Sea) không phải là Biển Nam Hoa (South China Sea).
Sau
này Trung Quốc lợi dụng danh xưng để mạo
nhận rằng Biển Nam Hải của tỉnh Quảng Đông chính là Biển Nam Hoa của Trung
Quốc.
Từ
thế kỷ 15, các nhà thám hiểm đại dương và các nhà doanh thương Âu, Á như Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hòa Lan, Anh, Pháp, Ả Rập khi vượt Đại Tây Dương đến vùng biển tiếp giáp Ấn Độ, muốn cho
tiện họ gọi vùng biển này là Ấn Độ Dương. Và khi qua Eo Biển Mã Lai đến vùng biển tiếp giáp Trung Hoa họ cũng
tiện thể gọi vùng biển này là Biển Nam Hoa (ngoại
nhân xưng Nam Trung Quốc Hải).
Sự
trùng điệp danh xưng này của các nhà địa lý Tây Phương chỉ là sự ghi nhận một
tập quán về ngôn ngữ hàng hải. Như vậy tên Biển Nam Hoa cũng như Ấn Độ Dương
không có tác dụng công nhận chủ quyền
của Trung Hoa và Ấn Độ tại các vùng biển này. Nó chỉ ghi nhận vị trí của Ấn Độ Dương là vùng tiếp
giáp Ấn Độ, cũng như Biển Nam Hoa là vùng tiếp giáp miền Nam Trung Hoa. Vả lại,
về diện tích, Biển Nam Hải (hay Biển Nam) chỉ rộng chừng 25km, trong khi Biển
Nam Hoa chạy từ bờ biển Quảng Đông tới bờ biển Nam Dương và rộng tới 2000 km.
Trong
những chuyến hải hành Trịnh Hòa chỉ dừng chân tại hải cảng Chaban (Trà Bàn hay
Đồ Bàn) thủ phủ Chiêm Thành. Theo Giáo Sư John King Fairbank tại Đại Học
Harvard, mục đích những chuyến công
du này không phải để cướp bóc hay thôn
tính lãnh thổ mà chỉ nhằm thiết lập
bang giao với hàng chục quốc gia duyên hải tại Ấn Độ Dương.
(The
Chinese expeditions were diplomatic not commercial, much less piratical or
colonizing ventures. John King Fairbank,
China, a New History, Harvard University Press 1992, p. 138).
Như
vậy, theo chính sử Trung Quốc, từ các đời
Tần Hán,Tam Quốc, Lưỡng Tấn, Nam Bắc Triều, Tùy Đường, Ngũ Đại, Tống Nguyên,
Minh Thanh, sử sách không ghi chép việc hải quân Trung Quốc đi tuần thám Biển
Đông Hải để chiếm hữu các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đồng thời công bố và
hành sử chủ quyền tại các quần đảo này.
HIỂM HỌA HUNG NÔ
Suốt chiều dài
lịch sử Trung Quốc trong hơn 20 thế kỷ về đời các Đế Quốc Tần Hán, Tùy
Đường, Tống Nguyên, Minh Thanh cũng như trong các thời Đại Phân Hóa như đời
Lưỡng Tấn, trở ngại chính yếu cho việc ổn định chính trị và phát triển kinh tế
là hiểm họa Hung Nô.
Danh
xưng Hung Nô tự nó đã hàm chứa ý nghĩa nhục mạ và phỉ báng, man di mọi rợ, dã
man hung dữ chỉ đáng làm nô lệ cho Hán tộc.
Không
phải bao giờ Hán binh cũng thắng thế. Vì các kỵ binh Hung Nô là những thiện xạ
có tài bắn cung từ trên lưng ngựa huyết hãn mã (mồ hôi đỏ như máu).
Đời
Nhà Hán hiểm họa Hung Nô là mối lo
gan ruột của Hán Vũ Đế 5 lần mang quân đi chinh chiến tại các mặt trận tây bắc.
Các phong hỏa đài dọc theo Vạn Lý Trường Thành là những trại tiếp liên báo động
tại quan ải:
Gió
lửa động sa mạc
Chiếu
rực mây Cam Tuyền
Vua
Hán chống kiếm dậy
Lại
vời Lý Tướng Quân.
(Lý Bạch,
Tái Hạ Khúc)
Lý
Tướng Quân ở đây là Lý Quảng, vị tướng lãnh nổi tiếng nhất trong Chiến Tranh
Hung Hán. Nhưng không phải bao giờ ông
cũng đem lại chiến thắng cho Hán Vũ Đế (140-87 Trước C.N.). Năm 119 Trước C. N.
Lý Quảng ở tuổi lục tuần, vì trái quân lệnh đã thất trận và phải tự sát để khỏi
bị xử trảm với nhục hình. Như vậy tướng quân họ Lý không đem lại vinh quang cho
nhà Hán.
Năm
100 Trước C. N. Hán Vũ Đế sai sứ giả Tô Vũ qua Hung Nô để can thiệp vào chính
sự một nước lân bang phía bắc. Cơ mưu
bại lộ, Tô Vũ bị bắt giam và quản thúc trong 19 năm, phải chịu nhục đi chăn dê
tại vùng sa mạc nóng cháy và miền núi tuyết giá băng.
Và
năm 33 Trước C. N., Hán Nguyên Đế phải đem Chiêu Quân cống Hồ, dầu rằng Vương
Tường là một trong bốn đại mỹ nhân Trung
Quốc, cùng với Tây Thi, Hằng Nga và Dương Quý Phi. Trong năm này Hán Nguyên Đế
đã từ trần vài tháng sau khi Chiêu Quân xuất giá.
Đến
đời Nhà Tấn (265-420) có loạn Nhung
Địch từ phía tây bắc lũ lượt nổi lên chiếm giữ cả vùng Bắc Trường Giang để xưng
vương, xưng đế tại 16 nước gọi là loạn
Ngũ Hồ. Sau 50 năm trị vì tại miền tây bắc, nhà Tấn phải lui về phía đông
nam để dựng nghiệp Đông Tấn tại Nam Kinh.
Kế
tiếp là đời Đế Quốc Tùy Đường. Đây
là thời thịnh trị cả về kinh doanh thương mại lẫn văn học nghệ thuật. Tuy nhiên
trong giai đoạn thoái trào vào thế kỷ thứ 8 có loạn An Lộc Sơn
với các binh sĩ Ngũ Hồ từ miền bắc xâm chiếm thủ đô Tràng An. Trên đường
rút quân về Tây Thục, dưới áp lực của các tướng sĩ, Đường Minh Hoàng phải bức
tử Dương Quý Phi tại Mã Ngôi.
Sau
đời Đế Quốc Tùy Đường là Đế Quốc Lưỡng
Tống kéo dài hơn 300 năm từ thế kỷ thứ 10 tới thế kỷ 13 (960-1280). Qua thế
kỷ 12 nhà Tống bị bao vây bởi Bắc Liêu về phía bắc và Tây Hạ về phía tây. Từ đầu thế kỷ 11 vua nhà Tống phải hàng
năm triều cống Bắc Liêu 10 vạn lạng bạc và 20 vạn tấm lụa. Tới đầu thế kỷ 12
(năm 1127) nước Kim (Mãn Châu) lấn chiếm toàn cõi Bắc Trung Hoa khiến Vua Tống
phải bỏ miền Bắc dời đô về Hàng Châu (Chiết Giang) gọi là Nam Tống. Đây là một
thời đại suy vi với sự phân hóa lãnh thổ,
suy thoái kinh tế và thất bại quân sự (Nhà Tống bị Việt Nam đánh bại 3 lần
trong những năm 981, 1075 và 1076).
Cũng
vì vậy trong hai thế kỷ 13 và 14, Trung
Quốc bị Hung Nô Mông Cổ thôn tính trong gần 90 năm (1280-1368). Đó là kỷ
nguyên của Đế Quốc Đại Nguyên hay Đế
Quốc Nguyên Mông.
Và
để kết thúc giai đoạn lịch sử Trung Quốc thời Trung Cổ, trong ba thế kỷ từ 17 đến 20 (1644-1911) đời Đế
Quốc Đại Thanh, Hung Nô Mãn Châu làm chủ Trung Quốc.
Để
có cái nhìn khách quan trung thực, chúng ta hãy kiểm điểm khái quát những điều
kiện kinh tế, xã hội, chính trị của các triều đại Trung Hoa từ đời nhà Tần đến
đời nhà Thanh. Từ đó chúng ta có thể nhận định rằng Trung Quốc không có điều
kiện khách quan và chủ quan để thôn tính Biển Đông Hải và giành giật chủ quyền
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Thời
Đế Quốc Tần Hán
Năm
221 Trước C.N., Nhà Tần thống nhất
đất nước, tập trung quyền lực trong chế độ độc tài quân phiệt, bãi bỏ chính
sách phân chia ruộng đất (tỉnh điền) và chế độ tư tưởng phóng khoáng thời Bách
Gia Chư Tử. Mặt khác huy động toàn dân vào việc xây đắp trường thành chống Hung
Nô và xây dựng cung điện nguy nga như Cung A Phòng với những hy sinh khủng
khiếp: 1 triệu viên đá xây thành là 1
triệu người dân hy sinh thân sống. Lịch sử Trung Hoa kết án Tần Thủy Hoàng
là một bạo chúa đã từ bỏ quan niệm hòa bình nhân ái của Khổng Mạnh lấy dân làm trọng, và coi nhẹ chính quyền (dân
vi quý, quân vi khinh). Vì quá lao tâm lao lực, Tần Thủy Hoàng chỉ trị vì được
11 năm. Từ đó với những âm mưu tranh giành quyền lực, cà thái tử lẫn tể tướng
đã phải hoặc tự sát, hoặc bị giết. Vua Tần Nhị Thế cũng bị một viên quan hoạn
giết sau 4 năm trị vì. Dân 6 nước bị nhà Tần sát hại thời Chiến Quốc cùng những
dân công khổ sai đã vùng đứng lên tiêu diệt chế độ nhà Tần năm 206 Trước C.N.
Lúc này tại miền Hoa Nam, hải quân
Trung Quốc không lai vãng đến vùng Biển Đông Hải.
Kế
nghiệp Nhà Tần là Nhà Hán kéo dài
hơn 4 thế kỷ (từ 206 trước C. N. đến 220 Tây Lịch) trong đó có 14 năm Vương
Mãng tiếm vị.
Trong
cuộc Hán Sở tranh hùng, Hán Vương Lưu Bang thắng Sở Vương Hạng Võ. Họ Lưu khởi
nghiệp từ miền Hán Giang (một chi nhánh của Dương Tử Giang) đã trừ được nhà
Tần, diệt được nhà Sở và thống nhất Trung Hoa lên ngôi lấy hiệu là Hán Cao Tổ
(206-195 trước C. N).
Trước
đó một năm, năm 207 Trước C. N., Triệu Đà cũng đã lên ngôi hiệu là Triệu Vũ
Vương sau khi đánh thắng An Dương Vương và sát nhập Âu Lạc với quận Nam Hải để
thành lập nước Nam Việt độc lập, đặt thủ đô tại Phiên Ngung (Quảng Châu).
Trong
khi tại miền Bắc Hán Cao Tổ chỉ trị vì được 11 năm, thì tại miền Nam Triệu Vũ
Vương đã chấn chỉnh và mở rộng bờ cõi trong suốt 70 năm (207-137 Trước C. N.).
Năm 196 Trước C. N. Hán Cao Tổ sai Lục Giả sang phong tước cho Triệu Vũ Vương.
Sau
khi Hán Cao Tổ mất bà Lữ Hậu lâm triều lộng hành không cho người Việt mua các
đồ sắt, điền khí và trâu bò nái. Triệu Vũ Vương xưng là Nam Việt Hoàng Đế
(Triệu Vũ Đế) rồi cử binh đánh bại quân nhà Hán tại Trường Sa (Hồ Nam). Sau khi
Lữ Hậu mất Hán Văn Đế lại sai Lục Giả sang thương thuyết, yêu cầu Triệu Vũ Đế
bỏ đế hiệu. Hán Văn Đế cam kết rằng: “Tại
miền Hồ Quảng, từ phía nam Ngũ Lĩnh
và Động Đình Hồ, Triệu Vũ Vương được toàn quyền cai trị”.
Đến
năm 111 Trước C. N., khai thác mâu thuẫn giữa ba nước Mân Việt, Đông Việt và
Nam Việt, Hán Vũ Đế đã thôn tính Nam Việt trái với lời cam kết của các tổ phụ
và tiên vương Hán Cao Tổ và Hán Văn Đế.
Tuy
nhiên, sau cái chết của Hán Vũ Đế (năm 87 Trước C.N.), Nhà Hán bắt đầu suy
thoái. Trong đời Hán Nguyên Đế (48-33 Trước C.N.), quân Nhà Hán đã phải rút
khỏi Châu Nhai và Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam) cho đến cuối thế kỷ thứ 6 đời Lương,
Tùy mới đặt lại nền cai trị. Nếu nhà Hán đã bỏ đảo Hải Nam thì cũng không
lý vấn đến các đảo Hoàng Sa Trường Sa tại Đông Hải. (Hải Nam cách Hoàng Sa
150 hải lý hay 275 km)
Tiếp
theo thời Đế Quốc Tần Hán là Thời Đại Phân Hóa Thứ Nhất (First Partition) với
các đời Tam Quốc, Lưỡng Tấn và Nam Bắc Triều.
Thời
Đại Phân Hóa Thứ Nhất
Trong
đời Tam Quốc (220-265), với thế chân
vạc Ngụy, Thục, Ngô, không nước nào dám mạo hiểm và có thực lực đi thôn tính
biển Đông Hải. Thời Hán mạt Tào Tháo mượn lệnh Hán Đế đem 10 vạn quân (phóng
đại là 80 vạn) đi xâm chiếm Đông Ngô và đã bị Chu Du và Gia Cát Lượng đánh tan
trong trận Xích Bích năm 207.
Đến
đời Nhà Tấn (265-420) có loạn Nhung
Địch từ phía tây bắc lũ lượt nổi lên chiếm giữ cả vùng Bắc Trường Giang để xưng
vương, xưng đế tại cả thảy 16 nước gọi là loạn
Ngũ Hồ. Sau 50 năm trị vì tại miền tây bắc, nhà Tấn đã phải lui về phía
đông nam để dựng nghiệp Đông Tấn tại Nam Kinh.
Sau
khi nhà Tấn mất ngôi có nạn phân hóa Nam
Bắc Triều với 7 nước là Ngụy, Tề, Chu phía bắc và Tống, Tề, Lương, Trần
phía nam.
Do
sự phân hóa này Trung Quốc không còn sinh khí. Đến đời nhà Lương, tại Giao
Châu, Lý Bôn phất cờ khởi nghĩa xưng là Lý
Nam Đế lấy quốc hiệu là Vạn Xuân. Sau đó Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử kế
nghiệp Nhà Tiền Lý trong gần 60 năm (từ năm 544 đến 602).
Thời
Đế Quốc Tùy Đường
Kế
tiếp đời Nam Bắc Triều, Nhà Tùy trị
vì được 30 năm, và cùng với Nhà Đường
khởi sự Thời Đế Quốc Thứ II (Second Empire). Đây là thời thịnh trị cả về kinh
doanh thương mại lẫn văn học nghệ thuật. Đường Minh Hoàng làm thơ ca tụng Khổng
Tử. Các đại sư Huyền Trang và Nghĩa Tĩnh sang Ấn Độ thỉnh kinh Phật. Các thi sĩ
nổi tiếng đời Đường như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Vương Duy đã chịu ảnh
hưởng sâu đậm của các tư tưởng Lão Trang, Khổng Mạnh và Phật Giáo.
Tuy
nhiên trong giai đoạn thoái trào vào thế kỷ thứ 8 có loạn An Lộc Sơn
với các binh sĩ Ngũ Hồ từ miền bắc xâm chiếm thủ đô Tràng An.
Sự
suy đồi của Nhà Đường dẫn tới đời Ngũ
Đại kéo dài hơn 50 năm với 5 triều đại đã có từ trước như các nhà Hậu
Đường, Hậu Lương, Hậu Tấn, Hậu Hán và Hậu Chu. Vận dụng cơ hội lịch sử này Ngô Quyền kết tập binh mã phá tan quân Nam Hán năm 938 trong trận hải
chiến Bạch Đằng Giang. Do đó, từ năm 939, Việt Nam được giải phóng khỏi nạn Bắc Thuộc một ngàn năm, mở đường
cho kỷ nguyên độc lập với các nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê và Nguyễn,
từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 19.
Thời
Đế Quốc Lưỡng Tống.
Trong
thế kỷ thứ 10 quân Nhà Tống kéo sang xâm chiếm nước Nam. Để chống ngoại xâm các
tướng sĩ tôn Thập Đạo Tướng Quân Lê Hoàn lên làm vua. Và năm 981 Lê Đại Hành đánh
thắng lục quân nhà Tống với Hầu Nhân Bảo và thủy quân với Lưu Trừng tại Bạch
Đằng Giang.
Năm
1075, dưới đời vua Lý Nhân Tông, Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem quân vượt biên
vây đánh Châu Khâm, Châu Liêm tại Quảng Đông và Châu Ung tại Quảng Tây. Qua năm
sau nhà Tống đem quân sang báo thù. Nhưng một lần nữa lại bị Lý Thường Kiệt
đánh bại trên sông Như Nguyệt hay Sông Cầu (Bắc Ninh).
Sau
3 lần dụng võ thất bại, do trình tấu của Hoàng Thân Triệu Nhữ Quát, vua Tống
Thần Tông phải theo chính sách “Trọng Võ
Ái Nhân” (thận trọng việc võ bị, thương xót mạng người, không phơi binh nơi
lam chướng), và đã thừa nhận nền độc lập của Đại Việt.
Nhà
Tống kéo dài từ thế kỷ thứ 10 tới thế kỷ 13 (960-1280). Qua thế kỷ 12 nhà Tống
bị bao vây bởi Bắc Liêu và Tây Hạ. Ngay từ đầu thế kỷ 11 vua nhà Tống đã phải
hàng năm triều cống Bắc Liêu 10 vạn lạng bạc và 20 vạn tấm lụa. Tới đầu thế kỷ
12 (năm 1127) nước Kim lấn chiếm toàn cõi phía bắc Trung Hoa khiến Vua Tống
phải bỏ miền bắc thiên đô về Hàng Châu (Chiết Giang) gọi là Nam Tống. Đây là
một thời đại suy vi kéo dài 150 năm. Với
sự phân hóa lãnh thổ, suy thoái kinh tế, và nhất là sau 3 lần thất trận tại
Việt Nam, Nhà Tống không còn dòm ngó đến Biển Đông Hải với Hoàng Sa và Trường
Sa.
Thời
Đế Quốc Nguyên Mông.
Qua
thế kỷ 13 Trung Quốc bị Mông Cổ thôn tính trong gần 90 năm (1280-1368). Trước
đó trong chiến dịch Tây Tiến, Thành Cát
Tư Hãn đã chiếm giữ vùng Trung Á 6 ngàn dặm đến Hung Gia Lợi và nước Nga
tại Bắc Âu và Ba Tư tại Nam Á. Rồi quay về chiếm nước Tây Hạ, nước Kim và Triều
Tiên. Trước đó, năm 1257 quân Mông Cổ đánh Vân Nam và tràn sang Việt Nam. Tuy
nhiên, với quân dân một lòng, nhà Trần đã đánh tan quân Mông Cổ tại Đông Bộ
Đầu. Đây là chiến thắng đầu tiên của Việt Nam đối với nhà Nguyên.
27
năm sau, năm 1284, con Nguyên Chủ Hốt Tất Liệt là Thoát Hoan kéo 50 vạn quân
sang báo thù.
Trong
Hội Nghị Diên Hồng các bô lão đồng thanh xin đánh. Dưới sự lãnh đạo của Trần
Hưng Đạo, chỉ trong vòng 6 tháng, từ tháng 12-1284 đến tháng 6-1285, quân Đại
Việt đã đánh đuổi quân Nguyên ra ngoài bờ cõi. Toa Đô bị bắn chết, Ô Mã Nhi bị
đuổi quá gấp phải một mình lẻn xuống thuyền con chạy trốn, và Thoát Hoan phải
chui ống đồng lên xe chạy thoát về Tầu.
Thời gian này Hốt Tất
Liệt đã có kế hoạch thôn tính Quần Đảo Phù Tang. Nay quân Thoát Hoan đại bại
kéo về, Nguyên Chủ phải đình chỉ kế hoạch Đông Tiến. Và hai năm sau, đầu năm
1287, Thoát Hoan lại tập trung lực lượng kéo 30 vạn quân sang Đại Việt để báo
thù lần thứ hai.
Tuy nhiên, cũng như lần
trước, chỉ trong vòng một năm quân Mông Cổ đã mua lấy thất bại. Ô Mã Nhi lần
này bị bắt sống tại Bạch Đằng Giang. Sau đó quân Trần Hưng Đạo đại phá quân
Nguyên khiến Thoát Hoan phải thu tàn binh tháo chạy về Yên Kinh. Và tại Thăng
Long, vua Trần Nhân Tông đem các tướng nhà Nguyên bị bắt như Ô Mã Nhi, Phàn
Tiếp làm lễ hiến phù tại Chiêu Lăng. Đây là một vinh dự cho Đại Việt đã 3 lần
đơn độc phá vỡ kế hoạch Nam Tiến (tại Việt Nam), đồng thời ngăn cản cuộc Đông
Tiến (tại Nhật Bản) của đoàn quân mệnh danh là “bách chiến bách thắng” từ đời
Thành Cát Tư Hãn.
Và sau ba phen thất bại, Nhà Nguyên
không còn dòm ngó đến Việt Nam cả trên lục địa lẫn ngoài hải phận. Trong
cuốn “Tranh Chấp tại Biển Nam Hoa”
Marwyn S. Samuels cũng xác nhận rằng: “Trong
suốt thế kỷ 14, các đội hải thuyền hùng mạnh của Nhà Nguyên có đi tuần tiễu, nhưng tại Biển Nam Hoa, các hải đảo Hoàng Sa và
Trường Sa không bị chiếm đóng và cũng không thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung
Quốc” (Marwyn S. Samuels: Contest for the South China Sea, Methuen, London,
1982).
Như
đã trình bày, trong bài “Thám Hiểm Đại
Dương”, học giả Hsieh Chiao-Min nhận định rằng: “Suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Trung Hoa không tha thiết đến đại dương”.
Thuyết bế quan tỏa cảng được áp dụng từ
đời nhà Tần, Vạn Lý Trường Thành không chỉ là một kiến trúc mà còn là một
nhân sinh quan. Miền bờ biển được coi là nơi hoang vu man rợ, đảo Hải Nam là
chốn lưu đày các tù nhân biệt xứ. Trong giả thuyết “Cổ Tẩu sát nhân” của Mạnh
Tử (thế kỷ thứ IV Trước C.N.), vua Thuấn vào ngục thất cứu cha là Cổ Tẩu (phạm
tội cố sát) rồi cõng cha chạy trốn về vùng bờ biển để mai danh ẩn tích đến trọn
đời. Sau khi chôn sống 460 nho sĩ tại
Hàm Dương, Tần Thủy Hoàng lưu đầy tất cả các nho sĩ đối kháng tại miền bờ biển.
Trung Hoa là một đại lục bao la, cả miền Tây và miền Bắc đất rộng mênh mông còn
chưa khai phá. Vậy mà từ đời nhà Tần, Trung Hoa đã tự cô lập từ trong đất liền
đến ngoài đại dương. Cho đến đời nhà
Thanh vào thế kỷ 19, chính sách bế quan tỏa cảng vẫn được thi hành.
Với
tâm lý tự cô lập, không thể có 100 ngàn quân nhà Hán đi khai phá các tiểu đảo
san hô tại Đông Hải. Rất có thể, như đã trình bầy, đó là 10 vạn thủy quân của
Tào Tháo mượn lệnh Hán Đế đi xâm chiếm Đông Ngô và đã bị Chu Du và Gia Cát
Lượng đánh tan trong trận Xích Bích.
“Trung
Hoa không bao giờ là một cường quốc đại dương. Dân tộc Trung Hoa trong 4 ngàn
năm chỉ sống về ruộng đất với những tập tục và quan niệm sống của nhà nông” (James Fairgrieve, Geography and World Power,
London, 1921).
“Với
các đặc tính của một dân tộc lục địa, Trung Hoa không phải là một cường quốc
đại dương. Chú tâm của họ hướng về đất liền tại miền Trung Á hơn là ra hải
ngoại. Do đó các kiến thức của họ về biển cả và duyên hải thật quá thô sơ”. (E. B. Elridge, The Background of Eastern Sea
Power, Melbourne, 1948).
Đời
Nhà Minh
Trong
cuốn “Lịch Sử Trung Quốc Thời Trung Cổ”
ghi trên, học giả Hsieh Chiao-Min ghi nhận rằng, theo chính sử, từ các thế kỷ
thứ 3 và thứ 2 Trước C. N., người Trung Hoa chỉ đi tới Biển Nhật Bản và Đông
Trung Quốc Hải. Họ không nghĩ có đất liền bên kia Thái Bình Dương. Do đó mọi cuộc
thám hiểm đều hướng về Tây Dương.
Mãi
đến thế kỷ 15 dưới đời Minh Thành Tổ
(1403-1424) mới có những vụ thám hiểm đại dương từ Đông Nam Á đến Ấn Độ và Đông
Phi .
Đồng
thời với 5 cuộc Bắc Chinh chống Hung Nô, Minh Thành Tổ cử Đô Đốc Thái Giám
Trịnh Hòa chỉ huy những cuộc hành trình tại Ấn Độ Dương mệnh danh là “Thất Hạ
Tây Dương” (Tây hay Tây Trúc chỉ Ấn Độ và Tây Dương là Ấn Độ Dương).
Điều
đáng lưu ý là về 7 chuyến công du tại trên 30 quốc gia trong 28 năm (từ 1405
đến 1433), chính sử Trung Hoa cũng ghi rõ phái bộ Trịnh Hòa chỉ đi qua Biển Nam Hoa nhằm thám hiểm Ấn Độ Dương. Như vậy không có chuyện
phái bộ Trịnh Hòa đến các đảo Hoàng Sa và Trường Sa để chiếm hữu và hành sử chủ
quyền.
Theo chính sử do các sử gia Trung
Quốc trên thế giới hội nghị tại Đài Bắc năm 1968 và biên soạn năm 1978 thì
trong các đời Tần Hán, Tùy Đường, Tống Nguyên và Minh Thanh, không thấy một
dòng chữ nào đề cập việc Trung Quốc đem quân chiếm cứ các hải đảo tại Biển Đông
Hải.
Các chuyến hải hành chỉ vụ vào việc bành trướng thế lực ngoại giao và phát
triển giao thương giữa Trung Hoa với các quốc gia Á Phi tại Ấn Độ Dương và Biển
Ả Rập.
Tuy
nhiên những chuyến hải hành chỉ nhằm phô trương thanh thế cho Minh Thành Tổ chứ
không thực sự đem lại kết quả cụ thể nào về mặt ngoại giao. Do đó dư luận trong
nước đã phê phán những chuyến đi phô trương nặng phần trình diễn làm hao mòn
công quỹ khiến kinh tế quốc gia bị suy thoái.
Riêng
tại Đại Việt, Giáo Sư J.K. Fairbank cũng nói về cuộc xâm lăng khởi sự năm 1407
và kết thúc năm 1427. Kết cuộc, với những tổn thất đáng kể, nhà Minh phải trả
chủ quyền độc lập cho Việt Nam năm 1428.
Hoàng
Sa Trường Sa theo Trung Quốc Sử
Trong Trung Quốc sử có rất nhiều
tài liệu lịch sử do nhà cầm quyền phổ biến và nhiều tác phẩm của các học giả
Trung Hoa thừa nhận chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam tại Hoàng Sa Trường Sa.
Dưới đời Nhà Thanh,
trong ba thế kỷ từ 17 đến 20:
a)
Theo
bản đồ Hoàng Thanh Nhất Thống Dư Địa Tổng
Đồ năm 1894 đời vua Quang Tự thì
đến cuối
thế kỷ 19 “lãnh thổ của Trung
Quốc chỉ chạy đến đảo Hải Nam là hết” (Hải Nam cách Hoàng Sa 150 hải lý
(275 km) về phía đông nam).
b)
Qua
thế kỷ 20 sự kiện này được xác nhận trong cuốn Trung Quốc Địa Lý Học Giáo Khoa Thư
xuất bản năm 1906 (cũng đời vua
Quang Tự) với đoạn như sau: “Điểm
cực Nam của Trung Quốc là bờ biển Châu Nhai thuộc quận Quỳnh Châu (Hải Nam) tại
Vĩ Tuyến 18”. Hoàng Sa Trường Sa tọa
lạc về phía Nam từ Vĩ Tuyến 16 đến Vĩ Tuyến 8 (từ Quảng
Trị xuống Cà Mâu).
c)
Trong
bản đồ Đại Thanh Đế Quốc do Chính Phủ ấn hành cũng không thấy
vẽ các quần đảo Hoàng Sa Trường Sa, và không thấy ghi các danh xưng Hán hóa Tây
Sa, Nam Sa.
d)
Trong
bộ Hải Quốc Đồ Ký, cuốn Hải Lục của Vương Bỉnh Nam (1820-1842) viết: “Vạn
Lý Trường Sa (Hoàng Sa) là giải cát dài ngoài biển được dùng làm phên dậu che chắn mặt ngoài bờ cõi nước An Nam”. Như
vậy có sự nhìn nhận rằng quần đảo này là biên thùy hải phận của Việt Nam.
e)
Theo học giả Marwyn S. Samuels trong cuốn Tranh Chấp tại Biển Nam Hoa nói ở trên“không có bằng chứng nào cho thấy nhà Thanh đã chiếm hữu và sát nhập
Hoàng Sa Trường Sa vào lãnh thổ Trung Quốc”.
f)
Trong
tập Địa Dư Chí
Tỉnh Quảng Đông được vua Ung
Chính duyệt phê năm 1731, không thấy ghi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là
lãnh thổ Trung Quốc.
g)
Trong bộ “Đại
Thanh Nhất Thống Chí” do Quốc Sử Quán Trung Hoa biên soạn năm 1842 với lời
tựa của vua Đạo Quang không có chỗ nào ghi Thiên
Lý Trường Sa hay Vạn Lý Trường Sa (quần đảo Hoàng Sa) thuộc hải phận tỉnh
Quảng Đông.
h)
Đặc biệt là trong cuốn Hải Quốc Văn Kiến Lục của Trần Luân Quýnh (năm 1744), vùng hải phận
của Việt Nam tại Biển Đông Hải được ghi bằng các danh xưng Việt Hải và Việt Dương.
i)
Ngoài
ra cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự của Hòa
Thượng Thích Đại Sán xuất bản năm 1695 đời Khang Hi cũng ghi nhận Đại Việt đã
chiếm hữu, và khai thác Biển Đông với Hoàng Sa Trường Sa.
Đời Nhà Minh
a)
Bản
Đồ Mao Khôn trong cuốn Vũ Bị Chí của
Mao Nguyên Nghi gọi vùng biển Việt Nam là Giao
Chỉ Dương.
b)
Trên
các bản đồ Trịnh Hòa Hạ Tây Dương và Trịnh Hòa Hàng Hải Đồ không thấy ghi các
quần đảo Hoàng Sa Trường Sa với các danh xưng Hán hóa Tây Sa, Nam Sa, Tuyên
Đức, Vĩnh Lạc trong các lộ trình của Trịnh Hòa 7 lần đi ngang qua Biển Nam Hoa
để khai phá Ấn Độ Dương.
c)
Trong
hai thế kỷ 14 và 15 có sự giao chiến trường kỳ 100 năm giữa Việt Nam và Chiêm
Thành: Với Chế Bồng Nga đời vua Trần Nghệ Tông (năm 1370), và với hai anh em
Trà Toàn, Trà Toại đời vua Lê Thánh Tông (năm 1470). Nếu quả thật nhà Minh đã
chiếm đất Chiêm Thành trong chuyến đi thứ tư của Trịnh Hòa năm 1413, thì lẽ tất
nhiên sử sách của Trung Hoa, Chiêm Thành và Việt Nam đã phải ghi chép việc đó.
Mà
nếu Trịnh Hòa đã chiếm Chiêm Thành năm 1413 thì lẽ tất nhiên Nhà Minh đã phải
đem quân chống lại vua Lê Thánh Tông là người đã phát động Chiến Dịch Nam Tiến
năm 1470 để mở rộng lãnh thổ đến Bình Định Phú Yên.
d) Theo sách Dư Địa Chí đời Hồng Đức lưu trữ tại Đông Dương
Văn Khố Tokyo, tới hậu bán thế kỷ 15 dưới triều vua Lê Thánh Tông năm Hồng Đức
nguyên niên (1470), Chiêm Thành đã là lãnh thổ của Đại Việt gồm có lục địa, hải
phận và các hải đảo.
e) Về việc này cuốn
Minh
Sử ghi chép như sau: “Sứ thần Chiêm Thành nói: Cổ lai đất nước Chiêm có
27 xứ, 4 phủ, 7 châu, 22 huyện, nay vua
An Nam lấy đi chỉ còn 5 xứ, từ Bang Đô Lang đến Chân Lạp”. Lúc này vua Nhà
Minh yêu cầu vua Lê Thánh Tông trả đất cho Chiêm Thành nhưng Ngài không chịu.
Lý do là vì Minh Chủ không chịu trả đất Nam Việt thời Triệu Vũ Đế cho Đại Việt.
Tài liệu lịch sử này cho biết từ thế kỷ 15, vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa
nguyên là địa bàn ngư nghiệp của Chiêm
Thành đã trở thành lãnh thổ Đại Việt.
Đời Nhà Nguyên
a)
Trong
thế kỷ 13 Mông Cổ bị Đại Việt 3 lần đánh bại trong 3 thập
niên,vào những năm 1257, 1285 và 1287. Sau
ba phen thất bại, Nhà Nguyên không còn dòm ngó Việt Nam từ trên lục địa đến
ngoài hải phận. Và trong các thế kỷ 13 và 14, theo chính sử, quân Mông Cổ
không xâm chiếm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
b)
Theo cuốn Tranh
Chấp tại Biển Nam Hoa của Marwyn Samuels
“trong thế kỷ 14 các đội hải
thuyền hùng mạnh của nhà Nguyên có
đi tuần tiễu, nhưng tại Biển Nam Hoa các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa không bị chiếm đóng và không thuộc chủ quyền
lãnh thổ của Trung Quốc” (sách đã dẫn, trang 20).
c)
Cũng
như các sách sử địa đời Nhà Thanh, cuốn Nguyên
Sử Địa Lý Chí đã viết như sau: “Cương
vực Trung Quốc đời Nhà Nguyên về phía Nam chỉ đến Đảo Hải Nam, và về phía Bắc
không quá Sa Mạc Gobi”.
Đời
Nhà Tống
a)
Như
trong thế kỷ 13 đời Nhà Nguyên, trong hai
thế kỷ thứ 10 và 11 Việt Nam cũng đã 3 lần đánh thắng Nhà Tống trong những năm
981, 1075 và 1076.
b)
Sau 3 phen thất
trận, theo trình tấu của Hoàng Thân Triệu Nhữ Quát, vua Tống Thần Tông đã phải
theo chính sách Trọng Võ Ái Nhân
(thận trọng việc võ bị, thương xót mạng người, không phơi binh nơi lam chướng).
Và đã thừa nhận nền độc lập của Đại Việt.
c)
Sách
Chư Phiên Chí của Triệu Nhữ Quát nhìn
nhận rằng quần đảo Hoàng Sa mà tác giả gọi là Thiên Lý Trường Sa (Bãi Cát Dài Ngàn Dặm) là đất của nước phiên thuộc
An Nam,
d)
Trong
đời Nam Tống cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Chu
Khứ Phi cũng xác nhận: “Vạn Lý Trường Sa (Hoàng Sa) tọa lạc tại Giao Chỉ Dương”.
Đời Nhà Đường
a) Sách Đường Thư Nghệ Văn Chí đề cập đến
cuốn Giao Châu Dị Vật Chí của Dương
Phu trong đó tác giả tường thuật những
việc kỳ dị và những nơi kỳ dị tại Giao Châu (Việt Nam). Như tại Thất Châu Dương
(Nhóm An Vĩnh, Hoàng Sa) là nơi có nhiêu từ thạch hay đá nam châm khiến các
thuyền ngoại dương có đóng chốt sắt không đi qua được. Đây có sự thừa nhận các
đảo Hoàng Sa là thành phần của Việt Nam.
b)
Ngoài ra sách Tứ Di Lộ Trình
của Giã Đàm đời Đường có vẽ hải đạo Hồng Kông-Tân Gia Ba nhưng không ghi các
hải đảo Hoàng Sa, Trường Sa hay các danh xưng Tây Sa, Nam Sa.
Đời Nhà Hán
a) Trong cuốn Chư Phiên Chí, sử gia Triệu Nhữ Quát đời Nhà Tống đã xác nhận sự
kiện lịch sử đáng ghi nhớ như sau: Năm 111 Trước C. N., sau khi thôn tính Nam
Việt “Hán Vũ Đế sai quân vượt biển sang chiếm đất của địch quân (Nam Việt) và
đặt ra hai quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ (Đảo Hải Nam). Trong thế kỷ thứ nhất Trước
C.N. Hán Nguyên Đế đã rút quân khỏi đảo Hải Nam, mãi tới đời
nhà Lương và nhà Tùy vào cuối thế kỷ thứ 6 và đầu thế kỷ thứ 7 mới đặt
lại quyền cai trị”.
b)
Như đã trình bày, đến cuối đời Nhà Thanh vào đầu thế kỷ 20, biên cương
của Trung Quốc về phía Nam chỉ chạy tới đảo Hải Nam tại vĩ tuyến 18.
Tổng
kết lại, về mặt chính sử,
trong suốt 22 thế kỷ, từ các đời Tần Hán
thế kỷ thứ 3 Trước C.N. đến thế kỷ 20
đời Nhà Thanh, không thấy tài liệu nào, hay nói rõ hơn, không có câu nào ghi
rằng Biển Đông Hải với Hoàng Sa Trường Sa thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung
Quốc.
Mãi
tới năm 1951 nhân kỳ Hội Nghị Hòa
Bình San Francisco 1951, lần đầu tiên Chính Phủ Bắc Kinh mới đưa ra Công Bố
ngày 1-9-1951 đòi chủ quyền lãnh thổ tại các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó
là Bản Chú Giải về Đảo Nam Uy và Quần Đảo
Tây Sa theo đó “đảo Nam Uy cùng toàn
thể các quần đảo Nam Sa và Tây Sa đều là lãnh thổ của Trung Quốc, các tài liệu
lịch sử liên quan đến các quần đảo này có từ đời nhà Tống”.
Tuy
nhiên lịch sử Trung Quốc đã không xác nhận như vậy. Cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Chu Khứ Phi đời Nhà Tống gọi vùng biển Hoàng
Sa Trường Sa là Giao Chỉ Dương
Qua năm 1956 khi
Phi Luật Tân đòi chủ quyền các hải đảo Thái Bình (Itu Aba) và Trường Sa
(Spratly), ngày 29-5-1956 Chính Phủ Đài
Bắc cũng lên tiếng phản kháng, chủ trương rằng các hải đảo này đã thuộc chủ
quyền lãnh thổ của Trung Quốc từ đời nhà
Minh.
Dầu sao, cũng như Bản Công Bố Chủ Quyền của Bắc Kinh năm
1951, Bản Phản Kháng Phi Luật Tân của Đài Bắc năm 1956 không viện dẫn được bằng
chứng cụ thể nào về pháp lý, địa lý hay lịch sử để chứng minh chủ quyền của
Trung Quốc tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hai Chính Phủ Quốc Cộng Trung Hoa chỉ quả quyết
suông rằng Biển Nam Hoa là Biển Lịch Sử của Trung Quốc từ các đời Tống Thần
Tông hay Minh Thành Tổ. Đây chỉ là sách lược của Bắc Kinh nhằm phục hồi Đế Quốc Đại Hán do Mao Trạch Đông phát
động từ thập niên 1950. Để thi đua tranh thủ nhân tâm, Đài Loan cũng đã phải
phụ họa.
Ngày
nay, với “tứ hiện đại hóa”, Trung Quốc đã biểu lộ tính hiếu chiến trong chính
sách bành trướng cả về kinh tế lẫn chủ
quyền lãnh thổ. Quân đội Trung Quốc đang tăng cường sức mạnh để hy vọng có
ngày đủ phương tiện nhằm lọai trừ hay phòng ngừa sự can thiệp của Hoa Kỳ tại Á
Châu Thái Bình Dương. Sau đó, theo truyền thống và tự hào lịch sử, họ sẽ bước
vào giai đoạn đối đầu với phe Dân Chủ Tây Phương. Họ kỳ vọng rằng với quyết tâm
và phát triển kinh tế, hệ thống Trung Quốc sẽ nổi bật trên thế giới khiến các quốc
gia khác phải khâm phục và mặc nhiên chấp
thuận để họ thôn tính các vùng lãnh thổ và hải đảo tại Á Châu Thái Bình Dương.
Những
nhận định của Viện Nghiên Cứu Chính Sách Hoa Kỳ
cũng là nhận định của Tiến Sĩ Lỗ Chi-Kin từ Hồng Kông trong Luận Án Tiến
Sĩ đệ trình Đại Học Kinh Tế Chính Trị Luân Đôn năm 1986. Theo Mao Trạch Đông
“những lãnh thổ phụ dung trước kia đã được Trung Quốc chinh phục và khai hóa,
nay phải trả lại (Trung Quốc) văn minh chứ không thể thuộc về phe (Đế Quốc) dã
man”. (Chi-Kin Lo, Doctor of Laws Thesis
London 1986)
Từ sau Chiến Tranh Biên Giới Hoa-Ấn năm 1962, mọi
người nhìn rõ tham vọng không bao giờ thỏa mãn của Trung Quốc muốn đòi những
lãnh thổ mà họ đã thôn tính trong lịch sử.
Chính sách này được phổ biến năm 1954 trong cuốn “Lược Sử Tân Trung
Quốc” có kèm theo bản đồ, nhắc
lại lời Mao Trạch Đông: “Tất cả các lãnh
thổ và hải đảo thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc đã từng bị phe Đế Quốc
Tây Phương và Nhật Bản chiếm đoạt từ giữa thế kỷ 19 đến sau Thế Chiến I,
như Ngoại
Mông, Triều Tiên, “An Nam”, Mã Lai, Thái Lan, Miến Điện, Bhutan, Nepal, Ladakh,
Hồng Kông, Macao, cùng những hải đảo Thái Bình Dương như Đài Loan, Bành Hồ, Ryukyu, Sakhalin, phải được
giao hoàn cho Trung Quốc”.
Đây
là khát vọng bá quyền của Trung Quốc không bao giờ thỏa mãn. Đế Quốc Ngai Rồng phát hiện từ các đời
Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Tống Thánh Tông, Minh Thành Tổ đã được Mao Trạch
Đông chủ trương phục hồi từ 1955.
Nếu
quả thật muốn trung thành với chủ trương phải giao hoàn các lãnh thổ bị xâm
chiếm do chiến tranh võ trang, thì trước hết Trung Quốc phải giao hoàn cho Việt Nam lãnh thổ nước Nam
Việt do Triệu Vũ Vương thiết lập năm 207 Trước C. N. (gồm vùng trung nguyên
Trung Quốc với các tỉnh Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, đảo Hải Nam và Bắc Việt
Nam). Tuy nhiên năm 111 Trước C. N. Hán Vũ Đế
đã đem quân thôn tính Nam Việt nhằm Hán hóa vùng lãnh thổ này, mặc dầu
Nam Việt có nền văn hóa đặc thù khác với các dân tộc du mục Miền Bắc. Đó cũng
là nhận định của Giáo Sư C. P. Fitzgerald tại Đại Học Oxford: “Trong trường hợp
nước Nam Việt giữ vững chủ quyền độc lập với nền văn hóa đặc thù của Miền Nam, thì dầu nhà Hán có chiếm được miền Quảng Châu và Vân Nam, họ cũng
sẽ không thành công trong việc thiết lập ảnh hưởng tại vùng châu thổ Sông Tây
Giang phía đông nam Trung Quốc”. (C. P.
Fitzgerald, China, A Short Cultural History, p 184).
Theo
quan niệm truyền thống của Đạo Nho văn hóa nông nghiệp Phương Nam tôn trọng hòa
bình, bao dung và nhân ái, trong khi các sắc dân du mục Phương Bắc đặt nặng vấn
đề đấu tranh sống chết, một mất một còn. Diễn giải quan niệm về Sức Mạnh trong
bài “Tử Lộ Vấn Cường” (Trung Dung), Khổng Tử đối chiếu tác phong hiếu chiến tại
Phương Bắc với quan niệm hiếu hòa tại Phương Nam:
“Lấy
khoan nhân nhu hòa mà giáo hóa, không chủ trương báo thù kẻ vô đạo, đó là Sức
Mạnh của Phương Nam, và cũng là nơi người quân tử cư ngụ”. (Khoan nhu dĩ giáo,
bất báo vô đạo, Nam Phương chi Cường, quân tử khả cư).
“Ngồi trên lưng ngựa, mặc áo giáp,
đeo gươm giáo, xông pha nơi chiến địa, trước cái chết không sờn lòng, đó là Sức
Mạnh của Phương Bắc và cũng là nơi người
hiếu chiến cư ngụ”.
Trở lại chính sách bá quyền, Trung Quốc vẫn giữ
thái độ tiền hậu bất nhất trong những vụ tranh chấp chủ quyền lãnh thổ tại Biển
Nam Hoa. Vì một mặt Bắc Kinh vẫn mạnh miệng quả quyết nắm chắc phần thắng trong
tay, nhưng mặt khác, họ vẫn không dám đưa vấn đề tranh chấp chủ quyền hải đảo
và hải phận tại Biển Nam Hoa hay Biển Đông Nam Á ra trước các cơ quan trọng tài
quốc tế.
Ngày nay, cùng với người Việt trong và ngoài nước, chúng ta thách thức Bắc
Kinh công khai đưa vụ tranh chấp chủ quyền các hải đảo và hải phận tại Biển
Đông Hải, Biển Nam Hoa hay Biển Đông Nam Á ra
trước các cơ quan tài phán, trọng tài hay tham vấn theo thủ tục quốc tế.
(Judicial litigation, arbitration or consultation)
Tại
vùng Biển Đông Nam Á, rập theo tham vọng
của Đế Quốc La Mã hồi thế kỷ thứ nhất coi Địa Trung Hải là Biển Lịch Sử La
Mã, Bắc Kinh cũng đưa ra thuyết Biển Lịch
Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc (mà dân gian gọi là Lưỡi Bò). Họ coi đó là mục tiêu chiến lược từ
sau 1951. Nhất là từ 1982 khi Trung Quốc ký Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật
Biển.
Tuy
nhiên thuyết Biển Lịch Sử ngày nay đã lỗi thời. Nó đi trái Điều 8 Công Ước Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển và đi trái Luật Tục Lệ Quốc Tế của Tòa Án Quốc Tế The
Hague.
Trong
suốt 22 thế kỷ, từ các đời Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Tống Thần Tông, Minh
Thành Tổ đến giữa thế kỷ 20 (năm 1951), Trung Quốc không bao giờ lên tiếng yêu
sách đòi chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà họ gọi là Tây Sa và
Nam Sa). Họ khẳng định đó là một vấn đề “bất
khả tranh nghị”. Để tránh né mọi cuộc tranh luận công khai trước các cơ
quan tham vấn, trọng tài hay tố tụng. Lý do là vì họ không đưa ra được quan điểm pháp lý hay một bằng chứng lịch sử khả
tín nào cho thấy họ có chủ quyền tại các quần đảo này.
Năm 1982, sau khi ký Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển,
Bắc Kinh tập hợp 400 học giả, ngày đêm nghiên cứu, thảo luận trong suốt 10 năm
để kết luận rằng “Biển Nam Hoa là Biển
Lịch Sử của Trung Quốc từ hàng ngàn
năm nay”. Rồi họ hội nghị với 100 nhà trí thức Đài Loan để xác định chủ
trương này.
Tuy nhiên về mặt Công Pháp Quốc Tế, chiếu án lệ của Tòa Án
Quốc Tế The Hague, muốn có Biển Lịch Sử
phải hội đủ 3 điều kiện:
1.
Phải
có sự hành sử chủ quyền;
2.
Một
cách liên tục và trường kỳ; và
3.
Được
sự thừa nhận của các quốc gia duyên hải,
đặc biệt là các quốc gia tiếp cận và đối diện.
Dầu
sao Tòa Án Quốc Tế định nghĩa “biển
lịch sử là nội hải”.
Công
Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 đã kết thúc mọi cuộc tranh luận khi quy
định trong Điều 8 như sau:
“Ngoại
trừ trường hợp các quốc gia quần đảo [như Phi Luật Tân hay Nhật Bản] Biển
Lịch Sử hay nội hải của một quốc gia
nằm bên trong đất liền, về phía bên trong đường cơ sở (ranh giới) của biển lãnh
thổ. The International Court
of Justice has defined historic waters as “internal waters”; “Waters on the
landward side of the baseline of the territorial sea form part of the internal
waters of the State” (Art. 8 UNCLOS
1982).
Thủ Đắc do Chiếm Cứ
Theo
công pháp quốc tế, muốn thủ đắc chủ quyền các đất vô chủ sự chiếm cứ phải có những đặc tính
sau đây:
a) Chiếm cứ
hòa bình.
Không có sự chối
cãi rằng trong năm 1956 hải quân Trung Quốc đã chiếm cứ võ trang 7 đảo Hoàng Sa
thuộc Nhóm An Vĩnh phía đông bắc.
Năm 1974 Trung
Quốc lại dùng võ lực xâm chiếm 6 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm Lưỡi Liềm phía tây
nam.
Năm 1988, lần đầu tiên hải quân Trung Quốc tấn
công võ trang các đảo Trường Sa, và đã chiếm Đá Chữ Thập và Đá Gaven cùng một
số đá chìm và bãi ngầm.
Năm 1992, Trung
Quốc lại dùng võ lực xâm chiếm Bãi Vạn An trên Thềm Lục Địa Việt Nam phía đông
nam các bãi dầu khí Thanh Long và Tứ Chính.
Những vụ chiếm
cứ này không có tính hòa bình mà do xâm
lăng võ trang nên không được luật pháp và tòa án bảo vệ. Vì nó đi trái
Điều 2 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Cũng như thời Thế Chiến II, Nhật Bản đã
chiếm cứ Hoàng Sa và Trường Sa bằng võ lực nên không có tư cách chủ quyền hợp
pháp.
b) Chiếm cứ liên tục và
trường kỳ
Cho đến ngày
1-9-1951 Trung Quốc mới lên tiếng đòi “chủ quyền lịch sử “ tại Hoàng Sa và
Trường Sa.
Tuy
nhiên, theo cuốn Trung Quốc Địa Lý Học
Giáo Khoa Thư xuất bản năm 1906 đời
vua Quang Tự Nhà Thanh “Điểm cực Nam của Trung Quốc là bờ biển Châu
Nhai thuộc quận Quỳnh Châu (Hải Nam) tại Vĩ Tuyến 18”.
Theo Minh Sử, đời vua Lê
Thánh Tông từ thế kỷ 15 (năm 1470), các đảo Hoàng Sa và Trường Sa nguyên là địa bàn ngư nghiệp của Chiêm Thành đã trở
thành lãnh thổ của Đại Việt.
Theo Nguyên Sử “Cương vực Trung
Quốc đời Nhà Nguyên về phía Nam chỉ đến Đảo Hải Nam, và về phía Bắc không quá
Sa Mạc Gobi”.
Lịch sử Trung
Quốc không mang lại bằng chứng khách quan vô tư nào cho biết họ đã liên tục chiếm cứ, công bố và hành sự chủ
quyền tại Hoàng Sa, Trường Sa từ các đời Hán Vũ Đế, Tống Thần Tông, Minh
Thành Tổ hay Quang Tự. Nếu chỉ có một số ngư dân lẻ tẻ từ đảo Hải Nam đến đánh
cá theo mùa thì cũng không có sự công bố
và hành sử chủ quyền của Quốc Gia.
c) Hơn nữa sự chiếm cứ phải
được sự thừa nhận của các quốc gia liên hệ.
Đầu tháng 9, 1951, 51 quốc gia đồng minh họp Hội Nghị
Hòa Bình Cựu Kim Sơn để ký Hiệp Ước Hòa Bình Nhật Bản, trong đó Nhật Bản từ bỏ
quyền đòi Hoàng Sa Trường Sa nhưng không nói để trả cho nước nào. Ngoại Trưởng
Liên Sô Gromyko nạp tu chính án yêu cầu Hội Nghị biểu quyết trao Hoàng Sa Trường
Sa cho Trung Quốc. Nhưng Hội Nghị đã bác bỏ thỉnh cầu này với 46 phiếu chống và
3 phiếu thuận. Sau đó Thủ Tướng kiêm
Ngoại Trưởng Quốc Gia Việt Nam Trần Văn Hửu lên diễn đàn công bố chủ quyền của
Việt Nam tại Hoàng Sa Trường Sa và không gặp sự phản kháng nào.
Sự
thừa nhận chủ quyền hải đảo chỉ có ý nghĩa nếu xuất phát từ các quốc gia duyên
hải đối diện và tiếp cận. Vì các đảo này tọa lạc tại Biển
Đông Nam Á, nên chỉ các quốc gia Đông Nam Á mới có thẩm quyền thừa nhận. Mà cho
đến nay trong tất cả các quốc gia Đông Nam Á không một nước nào thừa nhận chủ
quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Điều
đáng lưu ý là, cho đến những năm 1956, 1974, 1988 và 1992 các đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã do Việt Nam chiếm cứ công khai, hòa bình, trường kỳ và liên tục nên không thể coi đó là đất vô chủ.
(terra nullius)
Do
đó, về công pháp quốc tế, thuyết Biển Lịch Sử không còn là một vấn đề tranh
nghị tại các Tòa Án Trọng Tài hay các Tòa Án Luật Biển. Vì thuyết này đi trái
với Luật Tục Lệ Quốc Tế của Tòa Án Quốc Tế The
Hague, và đã bị Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển bác bỏ trong Điều 8.
Vì biết rõ điều đó nên
Trung Quốc không dám đưa vụ tranh chấp hải phận và các hải đảo tại Biển Đông
Nam Á ra trước Tòa Án Quốc Tế, Tòa Án Luật Biển hay Tòa Án Trọng Tài Liên Hiệp
Quốc.
Trên đây là những sự thật lịch sử
do các chính phủ và học giả Trung Quốc biên soạn. Đó cũng là những lời bình
giải mà người viết chuyển đến ông Tập Cận Bình nhân chuyến công du mới đây của
ông tại Hoa Kỳ.
Luật Sư NGUYỄN
HỮU THỐNG
Chủ Tịch Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền