Bạch hóa hội nghị Thành Đô 1990; Từ bỏ Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và CNXH: 61 đảng viên đã bắt đầu lên tiếng nói tập thể, công khai đặt quyền lợi Tổ Quốc trên quyền lợi Đảng.
Tự hào thay!
Dân Quyền
THƯ NGỎ
Kính
gửi: Ban Chấp hành Trung ương và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ nhiều năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN)
dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô
hình xô-viết, được coi là dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin. Công cuộc đổi mới gần
ba nươi năm qua nhằm sửa chữa sai lầm về đường lối kinh tế nhưng chưa triệt để,
trong khi vẫn giữ nguyên thể chế độc đảng toàn trị kìm hãm tự do, dân chủ và
chia rẽ dân tộc. Đường lối sai cùng với bộ máy cầm quyền quan liêu, tha hóa tạo
điều kiện cho sự lộng hành của các nhóm lợi ích bất chính gắn với tệ tham
nhũng, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều
nước xung quanh.
Trong
khi đó, giới lãnh đạo Trung Qu ốc từ lâu đã theo đuổi
mưu đồ đặt nước ta vào vị thế lệ thuộc, phục vụ lợi ích của Trung Qu ốc. Sau Hội nghị Thành Đô năm 1990 đến nay,Việt Nam đã
có nhiều nhân nhượng trong quan hệ với Trung Qu ốc, phải trả giá đắt và càng nhân nhượng, Trung Qu ốc càng lấn tới. Gần
đây, trong bối cảnh quốc tế phức tạp, Trung Qu ốc có nhiều hành vi leo thang mới trong mưu
đồ xâm lược và bá chiếm Biển Đông, coi Việt Nam là
mắt xích yếu nhất cần khuất phục trước tiên. Thực tế bóc trần cái gọi là “cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa”
chỉ là sự ngộ nhận và “4 tốt, 16 chữ” chỉ là để che đậy dã tâm bành trướng.
Cho đến nay, thế lực bành trướng Trung Qu ốc đã đi được những bước quan trọng trong
mưu đồ biến Việt Nam thành “chư hầu kiểu mới” của họ.
Thực trạng đau lòng này
phơi bày sự yếu kém cả về trách nhiệm và năng lực của lãnh đạo đảng và nhà nước
trong thời gian qua.
Toàn thể ĐCSVN, trong
đó có chúng tôi, phải chịu trách nhiệm trước dân tộc về tình hình nói trên và
phải góp phần tích cực khắc phục những sai lầm đã gây ra; trong đó phần trách
nhiệm chủ yếu và trước hết thuộc về Ban Chấp hành Trung ương và Bộ chính
trị.
Vì vậy chúng tôi, những người ký tên dưới đây,
thấy cần bày tỏ suy nghĩ của những đảng viên ĐCSVN trung thành với tâm nguyện
vì nước vì dân khi vào Đảng với mấy yêu cầu chính dưới đây:
1. Trước tình thế hiểm nghèo của đất nước, với trách
nhiệm và vị thế của mình, ĐCSVN tự
giác và chủ động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây
dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang
dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa. Ngay
từ bây giờ, cần thảo luận thẳng thắn và dân chủ trong toàn Đảng và trong cả
nước về tình hình mọi mặt của đất nước và những thách thức trước bước đi mới
rất trắng trợn của Trung Qu ốc
bá chiếm Biển Đông, vạch ra con đường chuyển đổi cơ cấu kinh tế lạc hậu và lệ
thuộc nghiêm trọng vào Trung Qu ốc
hiện nay, xây dựng hệ thống nhà nước pháp quyền thật sự dân chủ. Chỉ có
như vậy mới phát huy được sức mạnh trí
tuệ, tinh thần và vật chất của dân tộc Việt Nam, tăng cường được đoàn kết, hòa
hợp dân tộc và tranh thủ được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân loại tiến bộ, mở ra
một thời kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ đất nước.
Quan điểm nêu trên cần được thấu suốt và thực hiện ngay trong việc chuẩn bị và tiến hành đại hội Đảng các
cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XII với các đại biểu được bầu chọn thật sự dân chủ, đáp ứng được yêu cầu
chính trị của đại hội. Đó là trách nhiệm của các tổ chức đảng các cấp và của
từng đảng viên có tinh thần yêu nước. Đồng thời, kỳ bầu cử Quốc hội sắp tới
phải thật sự dân chủ, tạo lập một Quốc hội chuyên nghiệp, xứng đáng đại diện
cho dân, đáp ứng yêu cầu lập pháp chuyển đổi thể chế chính trị.
Việc cần làm
ngay để thể hiện sự thực tâm chuyển đổi thể chế chính trị, tạo niềm tin trong
dân là các cơ quan công quyền chấm dứt các hành động sách nhiễu, trấn áp, quy
kết tùy tiện đối với người dân biểu tình yêu nước, đối với các tổ chức xã hội
dân sự mới thành lập, trả tự do cho những người đã và đang bị kết án hình sự
chỉ vì công khai bày tỏ quan điểm chính trị của mình.
2. Lãnh đạo đảng và nhà nước
thống nhất nhận định về mưu đồ và hành
động của thế lực bành trướng Trung
Qu ốc đối với nước ta, từ bỏ những nhận thức mơ hồ, ảo tưởng;
và có đối sách trước mắt và lâu dài bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn
vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống, thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Qu ốc, xây dựng quan hệ
láng giềng hòa thuận, hợp tác bình đẳng, vun đắp tình hữu nghị giữa nhân dân
hai nước.
Là người chủ đất nước, nhân dân có quyền
được biết và phải được biết sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Qu ốc và những điều quan
trọng đã ký kết với Trung Qu ốc
như thỏa thuận Thành Đô năm 1990, thỏa thuận về hoạch định biên giới trên đất
liền và vịnh Bắc Bộ, những thỏa thuận về kinh tế v.v…
Việc cần
thiết và cấp bách hiện nay là phải nhanh chóng kiện Trung Qu ốc ra tòa án quốc tế
nhằm phát huy thế mạnh chính nghĩa của nước ta. Đồng thời, Việt Nam cần chủ
động cùng với các nước ven Biển Đông thỏa thuận giải
quyết những vướng mắc về chủ quyền trên biển với các đảo, bãi đá; củng
cố sự đoàn kết, thống nhất của các nước ASEAN, trước hết là giữa các quốc gia
ven biển, trong cuộc đấu tranh chống mọi hành động bành trướng của Trung Qu ốc
muốn độc chiếm vùng biển này thành ao
nhà của mình.
Quan điểm
“không liên minh với nước nào nhằm chống nước thứ ba” là tự trói buộc mình,
không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi.
Tổ quốc đang
lâm nguy đồng thời đứng trước cơ hội lớn để thay đổi! Trách nhiệm của các đảng
viên yêu nước là phải cùng toàn dân nắm lấy thời cơ này, vượt qua thách thức,
mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ đất nước.
Bỏ lỡ cơ hội
này là có tội với dân tộc!
DANH SÁCH CÁC ĐẢNG VIÊN KÝ THƯ NGỎ GỬI BCH TW
VÀ TOÀN THỂ ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
______________________
1.
Nguyễn Trọng Vĩnh,
vào Đảng năm 1939, Thiếu tướng, nguyên Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành trung
ương Đảng khóa III, nguyên Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Qu ốc, Hà Nội.
2.
Đào Xuân Sâm,
vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng khoa Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà
Nội.
3.
Trần Đức Nguyên,
vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng ban Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà
Nội.
4.
Nguyễn Văn Tuyến,
vào Đảng năm 1946, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.
5.
Lê Duy M ật, vào Đảng năm 1947, Thiếu tướng, nguyên Tư lệnh phó,
kiêm Tham mưu trưởng Quân khu II, Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang
1979 – 1988, Hà Nội.
6.
Tạ Đình Du (Cao
Sơn ), vào Đảng năm
1948, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.
7.
Vũ Quốc Tuấn,
vào Đảng năm 1948, nguyên Trợ lý Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội.
8. Nguyễn Hữu Côn,
vào Đảng
năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên Tham mưu trưởng Hậu cần Quân đoàn 2, Hà Nội.
9. Hoàng Hiển, vào Đảng năm
1949, nguyên Trung tá Hải quân, Hà Nội.
10. Đỗ Gia Khoa, vào Đảng năm 1949,
nguyên cán bộ cơ quan Bộ Công an và Tổng cục Hải Quan, Hà Nội.
11. Hà Tuân Trung,
vào Đảng
năm 1949, nguyên Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nguyên Tổng biên tập tạp chí Kiểm tra, Hà Nội.
12. Nguyễn Thị Ngọc Toản, vào Đảng năm 1949, Đại
tá, Giáo sư, Cựu Chiến binh, nguyên Chủ nhiệm khoa, Quân Y
viện 108, Hà Nội.
13. Phạm Xuân Phương,
vào Đảng năm
1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên
chuyên viên Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hà Nội.
14. Tô Hòa,
vào Đảng năm
1950, nguyên Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng.
15. Võ Văn Hiếu, vào Đảng
năm 1950, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam.
16. Hoàng Tụy, vào Đảng năm 1950, Giáo sư Toán học, Hà Nội.
17. Huỳnh Thúc Tấn, vào Đảng năm 1951, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng
Chính phủ, Hà Nội.
18. Tạ Đình Thính, vào Đảng năm 1951, nguyên Vụ trưởng Văn phòng Trung
ương Đảng, Hà Nội.
19. Nguyên Ngọc, vào Đảng năm 1956, Nhà văn, nguyên Bí thư Đảng đoàn
Hội Nhà văn Việt Nam ,
Hội An.
20. Tương Lai, vào Đảng năm 1959, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội
học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, TP. Hồ Chí Minh.
21. Nguyễn Khắc Mai, vào Đảng năm 1959, Giám đốc Trung tâm Minh Triết,
Hà Nội.
22. Đào Công Tiến, vào Đảng năm 1960, nguyên
Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Hội Kinh tế
Việt Nam ,
TP. Hồ Chí Minh.
23. Vũ Linh, vào Đảng năm 1962, nguyên Chủ nhiệm chương trình
PIN mặt trời, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Hà Nội.
24. Nguyễn Kiến Phước,
vào Đảng năm
1962, nguyên Ủy viên Ban Biên tập báo Nhân Dân, TP. Hồ Chí Minh.
25. Nguyễn Thị Ngọc Trai,
vào Đảng
năm 1963, nhà báo, nhà văn, nguyên Phó Tổng biên tập báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội
26. Võ Văn Thôn, vào Đảng năm 1965, nguyên
Giám đốc Sở Tư pháp TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
27. Nguyễn Trung, vào Đảng năm 1965, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thái
Lan, Hà Nội.
28. Huỳnh Kim Báu, vào Đảng năm 1965, nguyên
Tổng thư ký Hội Trí thức yêu nước TP.
Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
29. Hạ Đình Nguyên,
vào Đảng
năm 1965, nguyên Chủ tịch Ủy ban phối hợp hành động Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh.
30. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), vào Đảng năm 1966, nguyên thư ký của Bí thư
Thành ủy Mai Chí Th ọ,
nguyên Phó bí thư Đảng ủy Sở Văn hóa -Thông tin TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí
Minh
31. Lê Công Giàu , vào Đảng năm 1966, nguyên
Phó bí thư Thường trực Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí
Minh, nguyên Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại, đầu tư TP. Hồ Chí Minh,
TP. Hồ Chí Minh.
32. Kha Lương Ngãi ,
vào Đảng
năm 1966, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài
Gòn Giải phóng, TP. Hồ Chí Minh.
33. Tô Nhuận Vỹ,
vào Đảng
năm 1967, nhà văn, nguyên Bí thư Đảng Đoàn kiêm Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh
Thừa Thiên - Huế, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, nguyên Giám đốc Sở Ngoại vụ tỉnh Thừa Thiên - Huế, TP. Huế.
34. Phạm Đức Nguyên, vào Đảng năm 1968, Phó Giáo sư Tiến sĩ ngành Xây
dựng, 46 tuổi đảng, Hà Nội.
35. Bùi Đức Lại, vào Đảng năm 1968, nguyên Vụ trưởng, chuyên gia
cao cấp bậc II, Ban Tổ chức trung ương Đảng, Hà Nội.
36. Lữ Phương,
vào Đảng năm
1968, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn Hóa Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam, TP. Hồ Chí Minh.
37. Nguyễn Lê Thu An ,
vào Đảng năm
1969, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP. Hồ Chí Minh.
38. Nguyễn Đăng Quang, vào Đảng năm 1969, Đại tá công an, đã nghỉ
hưu, Hà Nội.
39. Trần Văn Long,
vào Đảng năm
1970, nguyên Phó Bí thư Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, TP. Hồ Chí Minh.
40. Nguyễn Thị Kim Chi, vào Đảng năm 1971, Nghệ sĩ ưu tú, Đạo diễn điện ảnh,
Hà Nội.
41. Huỳnh Tấn Mẫm, vào Đảng năm 1971, nguyên
Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, nguyên đại biểu Quốc hội khóa
6, nguyên Tổng biên tập báo Thanh Niên,
TP. Hồ Chí Minh.
42. Võ Thị Ngọc Lan,
vào Đảng năm
1972, nguyên cán bộ công an TP. Hồ Chí Minh.
43. Hà Quang Vinh,
vào Đảng
năm 1972, cán bộ hưu trí, TP. Hồ Chí Minh.
44. Nguyễn Đắc Xuân,
vào Đảng năm
1973, nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa,
nguyên Trưởng Đại
diện báo
Lao Động tại khu vực Miền Trung - Tây Nguyên, TP. Huế.
45. Lê Đăng Doanh , vào Đảng năm 1974, Tiến sĩ Kinh tế học, nguyên thành
viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
46. Chu H ảo, vào Đảng năm 1974, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và
Công nghệ, Hà Nội.
47. Nguyễn Xuân Hoa, vào Đảng năm 1974, nguyên
Giám đốc Sở
Văn hóa - Thông
tin tỉnh Thừa Thiên - Huế, TP. Huế.
48. Nguyễn Vi Khải, vào Đảng năm 1974, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu
của Thủ tướng Chính phủ, 40 tuổi đảng, Hà Nội.
49. Cao L ập, vào Đảng năm
1974, nguyên Bí thư Đảng ủy ngành Văn hóa -Thông tin TP. Hồ Chí Minh.
50. Lê Thân , vào Đảng năm
1975, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên
Tổng Giám
đốc Liên doanh SG-Riversite, TP. Hồ Chí Minh.
51. Ngô Minh,
vào Đảng năm
1975, nhà báo, nhà văn, TP. Huế.
52. Trần Kinh Nghị,
vào Đảng năm
1976, cán bộ Ngoại giao về hưu, Hà Nội.
53. Hồ An,
vào Đảng năm
1979, nhà
báo, TP. Hồ Chí
Minh.
54. Đoàn Văn Phương,
vào Đảng
năm 1979, nguyên chiến sĩ thuộc Ban Giao lưu
trung
ương Cục, TP. Hồ Chí Minh.
55. Hồ Uy Liêm, vào Đảng năm 1980, nguyên Quyền Chủ tịch Liên hiệp
các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
56. Trần Đình Sử, vào Đảng năm 1986, Giáo sư Tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.
57. Lê Văn Luy ến, vào Đảng năm
1987, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam, TP. Hồ Chí Minh.
58. Nguyễn Gia Hảo, vào Đảng năm 1988, nguyên thành viên Tổ tư vấn của
Thủ Tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội.
59. Phạm Chi Lan, vào Đảng năm 1989, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu
của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
60. Đào Tiến Thi, vào Đảng năm 1997, Thạc sĩ, Ủy viên Ban chấp hành
Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội
61. Nguyễn Nguyên Bình, vào Đảng năm 1986, Trung tá, cựu chiến binh, Hà Nội.
_____________________