Vietnam Film Club thực hiện tại Washington, DC ngày 12-7-2014
TAMMY PHAM (Vietnam Film Club): Thưa ông, khi đưa
giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển của Việt Nam, thì Bắc Kinh đã có những
toan tính gì?
CARLYLE THAYER: Tôi nghĩ là hiện
nay câu trả lời chưa được rõ ràng lắm về mặt chiến-thuật lẫn chiến-lược. Ngay
cái thời-điểm họ đưa giàn khoan vào vùng biển Việt Nam cũng là bất ngờ. Bởi vì
tháng 10 năm ngoái Phó-thủ-tướng Lý Khắc Cường của Trung Quốc sang thăm Việt Nam,
thì báo đài Trung Quốc cho là những khó khăn trong quan-hệ hai nước đã được tháo
gỡ.
Hai bên đã đồng-ý lập ra ba
ủy-ban làm việc, trong đó có một ủy-ban liên-quan đến các vấn-đề biển đảo. Đã
có nhiều lời tuyên-bố là không có bên nào sẽ có hành-động xen vào chuyện của
bên kia. Như vậy là quan-hệ đang trên đường cải thiện. Thế mà như từ trên trời
rơi xuống, không hề có một hành-động khiêu khích nào từ phía Việt Nam mà tôi có
thể thấy, bổng nhiên họ đưa cái giàn khoan vào.
Nhưng câu hỏi chiến-lược lớn hơn thì
khá rõ, đó là, trong óc của người Trung Quốc, con đường chín vạch không phải là
một con đường tưởng-tượng, mà thuộc vùng ảnh-hưởng chính-đáng của họ. Họ đã cho
Hải Nam đưa ra những luật lệ như về đánh cá, để tạo thành một căn-bản pháp-lý ở
địa-phương. Như vậy, mọi sự dưới mắt họ là hợp pháp và họ muốn làm trùm, họ
muốn các nước khác công-nhận là Trung Quốc có chủ-quyền và quyền chủ-quyền trên
những đảo và vùng biển mà Trung Quốc vẫn cho là thuộc về họ.
Trong trường-hợp đó, việc đưa
giàn khoan vào chỗ họ đã hạ đặt theo họ chỉ là một chuyện thực-thi chủ-quyền
bình-thường của họ. Quả thế, lúc đầu Trung Quốc khá lúng túng khi tìm cách
giải-thích chuyện ấy. Họ nói nó nằm trong vùng lãnh-hải của Trung Quốc. Nhưng cùng lúc họ lại bảo là nó nằm 17
hải-lý cách đảo Tri-tôn, như vậy là nằm ngoài lãnh-hải của họ. Sau đó, họ lại
sửa lại là nó nằm trong vùng kế cận, nghĩa là cộng thêm 12 hải-lý nữa. Nhưng thêm 12 hải-lý thì lại có vấn-đề liên-hệ
đến quan-thuế và một vài chi-tiết khác. Thành thử Trung Quốc đã không dùng được
luật quốc-tế để biện minh cho hành-động của họ.
Việc hạ đặt cái giàn khoan đó
liên-hệ đến vấn-đề chủ-quyền và quyền chủ-quyền của họ dưa trên dầu hỏa và khí
đốt tiềm-tàng ở đó. Nhưng rồi họ cũng vẫn sẽ phải giải thích về thời-điểm
đích-xác đặt giàn khoan ở đó vì Việt Nam không hẳn là đã “nằm ở trong túi” của
Trung Quốc, nhưng Việt Nam cũng không hẳn là đã về hùa với chính-sách
tái-cân-bằng lực-lượng của Hoa-kỳ ở trong vùng. Tuy hiện chưa rõ là Việt Nam có
muốn xích lại gần Hoa-kỳ hay không, nhưng trong quốc nội, hành-động của Trung Quốc chắc chắn đã tỏ ra phản
tác-dụng.
Cùng lúc tôi cũng vẫn tự hỏi, tôi
không nghĩ là thời-điểm đích-xác cũng như vị-trí hạ giàn khoan kia chỉ là một
sự ngẫu-nhiên, là Công-ty dầu khí ngoài khơi của Trung Quốc và một vài
thành-phần của Giải-phóng-quân và Hải-quân Trung Quốc bỗng-nhiên quyết-định
chuyện đó, đặc-biệt với số tàu mà họ đã đem ra vì họ không nghĩ là phía Việt Nam
sẽ có phản-ứng mạnh như thế. Vì thế, việc định thời-điểm và nhắm vào Việt Nam
là chuyện hãy còn mù mờ. Nhưng
mục-đích chiến-lược lớn của họ thì khá rõ, đó là Trung Quốc cho đây là vùng
biển lịch-sử của họ và họ sẽ làm mọi sự cần thiết để khẳng-định quyền của họ.
TAMMY PHAM: Theo ông, Việt Nam cần phải làm
gì để đối phó với các hành động của Trung Quốc hiện nay và ngăn ngừa những động
thái tương tự trong tương lai?
CARLYLE THAYER: Việt Nam ở vào
một thế yếu. Kẻ yếu thì không có bao nhiêu vũ-khí trong tay, ngoại-trừ việc dựa
vào ngoại-giao và luật quốc-tế. Có điều khá rõ ràng là nếu Việt Nam đã trả đáp
bằng một biện-pháp quân-sự thì chắc chắn sẽ gặp một phản-ứng quân-sự áp-đảo. Đó
là lý-do tại sao Việt Nam đã giữ hải-quân của mình ở các hải-cảng. Việt Nam
thực-sự không có nhiều lựa chọn, bởi Trung Quốc đã đưa ra lúc đầu là 50 tàu, rồi
lên đến 70 tàu, 80 tàu, và bây giờ là trên 100 tàu với khoảng 20
chiến-hạm. Rõ ràng là Trung Quốc
muốn bày ra một sức mạnh áp-đảo.
Trong trường-hợp này, Việt Nam có
thể làm một số chuyện. Trước hết là tối-thiểu về mặt luật-pháp quốc-tế cho thấy
là mình không gật đầu trước việc làm kia, như đưa lực-lượng duyên hải và các
tàu kiểm ngư ra để thông-báo trong 3 thứ tiếng, rằng đây là lãnh-thổ chủ-quyền
của Việt Nam, rằng Trung Quốc nên dời đi, như vậy Trung Quốc không bao giờ có
thể nói với quốc-tế là Việt Nam đã thuận ý.
Thứ hai là về con đường
ngoại-giao, trước hết là qua ASEAN và sau là qua các quốc gia khác. Và chuyện
này đã xảy ra trong cuộc gặp gỡ giữa các bộ-trưởng ngoại-giao của ASEAN khi lần
đầu tiên họ đưa ra một bản tuyên-bố đứng riêng về vấn-đề này, bày tỏ một sự
quan ngại nghiêm trọng về những chuyện gì đã xảy ra ảnh-hưởng đến hòa-bình và
ổn-định ở trong vùng. Và tuy họ không nhắc đến tên Trung Quốc, họ chưa bao giờ
họ nhắc đến tên Trung Quốc ngay từ bản tuyên-bố đầu tiên vào năm 1992, nhưng
việc ra tuyên-bố này cũng vẫn quan trọng vì trước đây đã có một vài sự lủng
củng trong nội-bộ ASEAN.
Theo tôi được biết, mặc dầu
Campuchia đã bắt đầu nêu ra một hai vấn-đề và Mã Lai còn phản-đối khá gắt, việc
họ đưa ra được một tuyên-bố là quan trọng từ quan-điểm của ASEAN và nhất là Việt
Nam, tổ-chức khu-vực này đã lên tiếng và đây là cơ-sở cho một nước như Hoa Kỳ
can-thiệp vào vấn-đề đứng về phía ASEAN. Ở hội-nghị CSIS (của Trung-tâm Nghiên
cứu Chiến-lược Quốc-tế) vào tháng 7 năm nay, người ta đã trình bầy khá rõ là vì
sao Hoa Kỳ đang thúc đẩy một giải-pháp dùng luật quốc-tế để ngăn chặn các
hoạt-động tìm cách đổi thay nguyên-trạng.
Cũng có ngoại-giao với Nhật Bản
để cho nước này tăng cường viện-trợ cho các lực-lượng tuần duyên của Việt Nam
và Quốc-hội Nhật Bản vào tháng 7 này cũng đang nghiên cứu vấn-đề này. Và trong
quá-khứ, Việt Nam đã ngoại-giao với Trung Quốc, và khi ông Lý Khắc Cường sang Việt
Nam, người ta đã nói đến những đường giây nóng giữa hai nước. Nhưng khi Việt Nam
gọi mấy đường giây nóng này thì không có ai trả lời. Họ đề nghị gởi một đặc-sứ sang Trung Quốc cũng không xong,
kể cả khi đề nghị gởi ông Tổng-bí-thư Đảng Cộng sản sang bên ấy, chuyện đó cũng
bị từ chối.
Trong cuộc đối-thoại chiến-lược
Shangri-La, tôi hỏi ông bộ-trưởng Quốc-phòng Việt Nam, trong một cuộc họp mở
rộng cho công-chúng là họ đã tiếp-xúc với cộng-đồng hải-ngoại chưa thì ông ta
bảo rằng Trung Quốc chưa có trả lời, rằng họ đang đánh một ván cờ bắt bí. Do
vậy nên việc đưa các lực-lượng bán quân-sự như lực-lượng duyên hải và kiểm ngư
ra là một cách đánh dấu sự hiện diện của Việt Nam nhưng đó vẫn là một ván bài
đang thua vì Trung Quốc vẫn đang mở rộng vùng kiểm-soát của họ và gây tổn-hại
cho ít nhất 29 tàu của phía Việt Nam.
Vả lại, phía Việt Nam cũng không
có bao nhiêu tàu đủ nặng ký để đương đầu với Trung Quốc. Tàu lớn nhất của phía
Việt Nam là 2000 tấn thì chỉ mới bằng những tàu nhỏ nhất của Trung Quốc, và như
vậy là một trò chơi bất cân-bằng. Nhưng dầu sao phía Việt Nam cũng đã ghi được
điểm cho mình, đó là về mặt trận ngoại-giao với khu-vực và với các nước ngoài
vùng.
Ngoài ra, không có bao nhiêu
chuyện Việt Nam có thể làm được trong lúc này. Mà nếu ở trong vùng và ở trên
thế-giới Việt Nam có thể đứng lên và khiêu khích thì Trung Quốc có thể lật thế
cờ và nói ngay là Việt Nam là phe hiếu chiến. Do đó nên Việt Nam chỉ có thể
trông mong là đến giữa tháng 8, tức là thời-điểm mà Trung Quốc nói là họ sẽ
hoàn-tất việc thăm dò của họ và rút giàn khoan ra. Đó cũng là vào mùa bão nữa
và như vậy, cả hai bên đều không còn lý-do để duy trì sự hiện diện của tàu bè
của mình trong vùng. Và điều đó có thể dẫn đến việc mở cửa cho một cuộc
đối-thoại.
TAMMY PHAM: Thưa ông, như ông thấy, Hà
Nội đã không có được mấy thiện cảm trong khối ASEAN. Trong khi đó thì Phi Luật
Tân được sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và nhiếu quốc gia khác, vì mục tiêu của họ rõ
ràng. Ông có nghĩ rằng Việt Nam có can đảm chống lại Trung Quốc như Phi Luật
Tân đang làm hay không?
CARLYLE THAYER: Trường-hợp của
Phi Luật Tân là một bài học cho Việt Nam, bởi trong nhiều năm, họ đã có nhiều
lần ngồi xuống với Trung Quốc, song cuối cùng họ đành phải đưa vấn-đề ra tòa án
quốc-tế. Họ bảo họ đã cạn kiệt mọi con đường thương-lượng, mặc dầu Trung Quốc
vẫn nói là cửa vẫn mở.
Nhưng thẳng thắn mà nói thì Trung
Quốc đòi là phải chấp nhận chủ-quyền của Trung Quốc trước đã rồi nói gì mới
nói. Tôi được nghe chuyện đó từ một nguồn tin từ chính tòa án quốc-tế, và
hiển-nhiên thì Phi Luật Tân không chấp nhận được. Nhưng Phi Luật Tân và Mỹ là
đồng-minh mà Việt Nam thì không phải là đồng-minh của Mỹ. Phi Luật Tân và Mỹ có
một hiệp-định quốc-phòng với nhau. Để cập-nhật-hóa vấn-đề thì ít nhất Thủ-tướng
Việt Nam đã nói là Việt Nam đang nghiên cứu chuyện đi con đường pháp-lý nhưng
vấn-đề là tính làm vào lúc nào.
Ở cuộc đối-thoại Shangri-La khi
bộ-trưởng Quốc-phòng Phạm Quang Thanh được hỏi về vấn-đề này thì ông ta bảo đó
sẽ là nước cờ cuối cùng. Chuyện quan trọng là người của Phi Luật Tân cũng vừa
từ Hà-nội về và nói, “Việt Nam cũng đang lập hai hồ-sơ, một về Hoàng Sa và một
vềTrường Sa. Hà-nội sắp đi cùng với chúng tôi.” Nhưng ông Thanh lại nói là Phi Luật Tân chỉ đang “lợi-dụng”
chúng tôi thôi.
Vấn-đề là nếu Việt Nam đi con
đường pháp-lý thì họ sẽ nêu ra các vấn-đề nào? Và cho mục-đích nào? Theo một
nguồn tin thì họ sẽ phân-biệt hai hồ-sơ Hoàng-sa và Trường-sa. Theo một nhà
luật-gia ở bên Bỉ thì Việt Nam có thể đi với Phi Luật Tân và nạp cho tòa án
quốc-tế một lời tuyên-bố là chúng tôi cũng có lợi-ích được thấy kết-quả trong
vụ kiện của Phi Luật Tân
Thế không có nghĩa là Việt Nam
bắt buộc phải theo chân Phi Luật Tân.
Nhưng nếu có những quốc-gia khác đi theo gương Phi Luật Tân, thì người
ta phải để ý, nếu những lời tuyên-bố tương-tự được chồng chất lên thì các vị
tài-phán sẽ chú ý và vấn-đề không còn chỉ là chuyện giữa hai nước nữa.
Đó là một. Hai là Việt Nam có thể
nhập vào với Phi Luật Tân. Nhưng
đôi ba điểm của Phi Luật Tân lại có thể làm cho lập-trường của Việt Nam yếu đi.
Hay là Việt Nam có thể đi kiện một
cách độc-lập và yêu-cầu có một sự phán xét riêng biệt, trong trường-hợp đó
những khác-biệt giữa Việt Nam và Phi Luật Tân lại có thể làm hại cho cả đôi bên
và làm lợi cho Trung Quốc tùy theo vụ kiện diễn-tiến ra làm sao. Ngoài ra, lại
còn trường-hợp của quần-đảo Hoàng-sa mà Việt Nam có thể đòi chủ-quyền do bởi
hành-động xâm-lăng của Trung Quốc vào năm 1974.
Ở đó không có vấn-đề trông chờ là
sẽ có một giải-pháp pháp-lý vì chắc chắn là Trung Quốc sẽ không chịu ra tòa.
Nhưng có những luật-gia quốc-tế cho rằng Việt Nam vẫn nên kiện bởi như vậy sẽ
chứng tỏ là Việt Nam sẵn sàng đi theo con đường giải-quyết các tranh-chấp bằng
luật-pháp quốc-tế, qua một tòa án quốc-tế để đòi chủ-quyền mà đằng nào mình
cũng muốn đòi. Có một ông bộ-trưởng Nhật-bản cho rằng Nhật-bản cũng nên đi con
đường đó trong trường-hợp quần-đảo Senkaku và đẩy Trung Quốc vào chỗ họ phải
chứng minh quan-điểm của họ.
Còn một vấn-đề thứ ba, đó là
những sự thiệt hại của các ngư-dân Việt Nam. Họ quan-niệm vấn-đề ra sao và họ muốn được đền bù như thế
nào, họ có những phương-thức nào để đòi. Song câu trả lời là chỉ có các quốc
gia là có thể kiện tụng trong những cuộc tranh chấp trên biển như thế này, và
quốc gia nào mà cho các tàu đó đăng ký là quốc gia phải khởi kiện.
Bằng cách nhấn mạnh vào con đường
pháp-lý này thì Việt Nam sẽ được sự đồng-tình của các nước trong ASEAN, sự
ủng-hộ chính-trị của ASEAN vì nhiều nhất cũng sẽ chỉ được có thế thôi. Nhưng
với sự chuyển hướng trong chính-sách của Mỹ quay sang các biện-pháp pháp-trị
dựa trên luật quốc-tế thì Việt Nam không những có thể trông chờ vào sự ủng-hộ
của Mỹ mà còn vào cả sự ủng-hộ của Nhật, Úc, Nam-Hàn, Ấn-độ và tất cả những
quốc gia lớn khác có vai trò trên biển này.
Tuy-nhiên, dựa vào luật quốc-tế
cũng có mặt trái của nó, đó là như trong trường-hợp Phi Luật Tân. Ngay như
phán-quyết của tòa án có áp-dụng liền và không chấp nhận khiếu nại thì vẫn
không có các biện-pháp chế-tài. Bởi thế nên nếu Trung Quốc nhất quyết khăng khăng
phủ-nhận thì chúng ta cũng không có cách nào ép Trung Quốc chấp nhận gia-nhập
cộng-đồng thế-giới trong chuyện này.
TAMMY PHAM: Việt Nam và Trung Quốc có những
mối quan hệ thay đổi khác nhau trong chiến tranh, sau chiến tranh, và đặc biệt
sau sự sụp đổ của khối cộng sản Nga và Đông Âu. Hội nghị Thành Đô được cho là
tái xác định lại quan niệm về quan hệ Việt-Trung. Theo nhận xét của ông, thì
những thay đổi quan hệ đó nói lên điều gì? Đi theo một lý tưởng? Hay quan hệ
nước lớn nước nhỏ theo chủ nghĩa sô vanh?
CARLYLE THAYER: Năm 1990 khi tìm
cách sáp lại gần với Trung Quốc, Việt Nam muốn liên-minh trở lại với Bắc Kinh
nhưng phía Trung Quốc họ nói: “Đồng-chí, không phải đồng-minh.” Do đó, chuyện chính là Trung Quốc muốn
cho thấy mình là một cường-quốc, và từ năm 1990, Việt Nam đã tìm cách làm một
chư-hầu trung kiên trong một hệ-thống tuế cống mới, và trong đó ý-thức-hệ chắc
chắn là có một vai trò.
Và tôi nhớ là vào năm 1992, nghĩa
là ít lâu sau đó, có vụ Crestone và ở vịnh Yuen-an (?) khi Trung Quốc tìm cách
đưa một giàn khoan vào, thì ở Trung-ương Đảng Việt Nam có một cuộc thảo-luận
sôi nổi về chuyện này và tôi nhớ có phóng-viên tờ Viễn Đông Kinh Tế trích một
nguồn tin cao-cấp nói rằng Trung Quốc dùng xã-hội-chủ-nghĩa “như một dây thừng
để cột tay của Việt Nam.”
Làm cách nào dùng ý-thức-hệ để
lấy lòng Trung Quốc, song lại trông chờ được thưởng như là nhảy theo mọi người
trong quan-hệ quốc-tế? Làm sao có thể như dưới thời Thành Cát Tư Hãn? Vì vậy
nên tôi nghĩ là Việt Nam bao giờ cũng nghĩ là dùng ý-thức-hệ để hội-nhập như họ
đã làm để có được một quan-hệ đặc-biệt với Trung Quốc.
Và từ khi nối lại bang-giao họ đã
có được một quan-hệ chiến-lược, một đối-tác chiến-lược toàn-diện dẫn đến hai
đảng có những quan-hệ hợp-tác lâu dài: ở mức quốc gia họ đã có những ban
chỉ-đạo trung-ương và do đó, Việt Nam đã nghĩ là họ có thể chia ngăn các cuộc
tranh chấp ở trong Biển Đông bằng cách dựa lên ý-thức-hệ và chiều theo ý Trung
Quốc để có thể nhảy lên theo toa tàu của Trung Quốc về mặt trục lợi kinh tế.
Vì thế nên khi giàn khoan 981
được hạ đặt, nó đảo ngược lại tất cả những việc làm trên kia, nó làm mất tin
tưởng chiến-lược vào nhau. Do đó nên ngày hôm nay Việt Nam vẫn còn đang
tranh-luận về chuyện này và tôi đã nói đùa với mấy người bạn Việt Nam của tôi
là nếu Việt Nam đi con đường xã-hội-chủ-nghĩa thì nó nên là xã-hội-chủ-nghĩa
với những đặc-trưng Việt Nam (thay vì Trung-hoa) để gộp những lợi-ích quốc gia
của Việt Nam vào trong đó.
Cô biết không, nhắc đến lợi-ích
dân-tộc là một vấn-đề tranh cãi dữ lắm khi nó được đưa vào ngôn ngữ hàng ngày ở
Việt Nam vì nó không hẳn là đi đôi với những quyền-lợi của công-nhân và các
lực-lượng xã-hội ở trong quốc gia đó. Vào năm 2003 và rồi vào năm 2013, Việt Nam
xác-định Trung Quốc và Hoa Kỳ là những quốc gia cần hợp-tác tuy có thể là vừa
hợp-tác vừa phải tranh đấu hay thậm chí đối đầu. Tuy-nhiên, trong một nỗ-lực
nhìn lại vào năm 2013, họ tự hỏi không hiểu họ có dùng quan-niệm đó một cách
hữu hiệu không.
Đối với các quốc gia
xã-hội-chủ-nghĩa, mình có thể có những bất đồng ý-kiến và phải giữ vững
lập-trường nhưng với một đế-quốc như Hoa-kỳ, chúng ta có nhiều khu-vực rộng lớn
không thể đồng-ý với nhau như về nhân-quyền và dân-chủ, nhưng đôi bên vẫn có
những điểm tụ-hội về lợi-ích cần nối kết với nhau.
Vì vậy nên ngày hôm nay, việc Việt
Nam không có khả-năng đối phó với Trung Quốc trong khi cần củng-cố quan-hệ với
Hoa-kỳ. Không phải vì những
mục-đích chiến-thuật tức-thời mà vì những mục-đích dài hạn như mở rộng kinh tế
của Việt Nam, gia-nhập TPP [Hiệp-ước đối-tác xuyên Thái-bình-dương] và đi tìm
tất cả những cái lợi khác như giáo-dục, khoa-học kỹ-thuật, tất cả chỉ là những
chuyện đãi bôi.
Chính quan-hệ toàn-diện là
bằng-chứng cho tất cả những chuyện đó bởi đôi bên đã làm tất cả những chuyện
ấy, do đó nên ta thấy có một sự rụt rè không dám tiến tới vì ý-thức-hệ, vì Việt
Nam vẫn nhìn vào mình như một nước xã-hội-chủ-nghĩa, một nước muốn dùng chuyện
ấy vào việc tăng cường sự hợp-tác của Trung Quốc. Nhưng mặt trái của đồng tiền
ấy là Trung Quốc muốn đó phải là xã-hội-chủ-nghĩa với những đặc-trưng
Trung-hoa, trong đó Trung Quốc đóng một vai trò nổi bật.
TAMMY PHAM: Nhiều người Việt Nam tin rằng đảng Cộng sản Việt Nam mang nợ Trung
Quốc qua nhiều, khó mà thoát ra được áp lực của Trung Quốc. Xin ông nhận xét về
nhận định này hiện đang lan tràn trong nước, và cả trong các đảng viên cộng
sản.
CARLYLE THAYER: Điều đó khó nói,
và đó sẽ là một cuộc vật lộn đối với các đảng-viên được huấn luyện ở ngoài Việt
Nam, nhất là những người tôi đã có dịp gặp. Tôi đã có lần viết một bài mang tên,“Cái
ác ôn của địa-lý” dựa trên một cuốn sách nói về “cái ác ôn của khoảng cách” của
nước Úc. Một nước da trắng, của
người Âu nhưng lại nằm ở Á-đông thay vì nằm ở phía Bắc Đại-tây-dương. Nói về
cái “ác ôn của địa-lý” tôi đã có lần nói là Việt Nam với 90 triệu người thật ra
chỉ bằng một tỉnh vừa của Trung Quốc, người ta đã đáp trả ngay: “Ông nói thế là
tiêu-cực quá! Chúng tôi có nhiều cái tích-cực chia xẻ với Trung Quốc, như
văn-hóa, tư tưởng chính-trị, tôn-giáo…”
Chắc chắn rồi, Việt Nam không thể
phủ-nhận gia-tài, di-sản của mình, nhưng chuyện quan-trọng là Việt Nam phải
biết diễn-dịch lại một cách sáng-tạo, như Việt Nam có căn-cước riêng của mình,
có lịch-sử riêng của mình, vì nói cho cùng Việt Nam đã lấy lại độc-lập từ Trung
Quốc. Nhưng tôi cho là cô cũng đúng, bởi tôi nghe người ta nói là những
chuyên-gia về Trung Quốc nghĩ như người Trung Quốc.
Mà đó không phải là một lời
chỉ-trích vì Trung Quốc bao giờ cũng hành-động một cách trịch thượng và Việt Nam
phải đoán trước được để ngoan ngoãn chiều theo. Họ nghĩ: “Nếu mình làm chuyện
này, nghĩa là sát gần đến Hoa-kỳ thì Trung Quốc sẽ nhào đến ngay, và như vậy là
ta không đến gần Hoa-kỳ và sẽ làm giảm được áp-lực kia đi ngay.”
Chính-sách này là chính-sách đã
có từ khá lâu như ta đã thấy, và cái cân-bằng trong một thế-giới đa-cực mà Việt
Nam muốn thấy từ Trung Quốc, Nga, Ấn-độ, Nhật-bản và Hoa-kỳ thì chỉ có ba nước
là thường hằng trong chính-sách của Việt Nam. Với Nga, là có vấn-đề với Hoa-kỳ, Trung Quốc thì bây giờ là
một anh bạn đáng ngờ. Đâu có ai trông chờ cuộc tranh chấp này giữa Việt Nam và Trung
Quốc bởi Trung Quốc là nước bạn độc-nhất có quan-hệ chiến-lược và toàn-diện với
Việt Nam. Vậy mà Trung Quốc đã làm những việc khuynh-đảo hoàn-toàn mối quan-hệ
đó.
Nhưng tôi cho là chuyện nhất
quyết xảy ra, không tránh được là các thành-phần trẻ sẽ lên. Có một đại-hội
Đảng sắp tới, với một Trung-ương Đảng ngày càng có tiếng nói của mình, họ không
phải là những thành-phần trẻ nhất trong Đảng nhưng chẳng bao lâu nữa họ sẽ như
thế. Một lớp lãnh-đạo mới sẽ hiện ra và toàn-cầu-hóa có nghĩa là họ sẽ tái-tạo
một căn-cước Việt Nam trong khung-cảnh toàn-cầu chứ không phải là ở trong một
thế-giới với Trung-hoa là rốn vũ-trụ.
TAMMY PHAM: Có thể nào ông tiên đoán những
động thái trong những ngày tới, một vài tháng hay một hai năm tới, liệu Trung
Quốc có tiếp tục các hành động xâm lấn, đặc biệt khi biết rằng Hoa Kỳ đang bận
rộn những nơi khác mà Trung Quốc lại thừa dịp để thực hiện các động thái mới?
CARLYLE THAYER: Chúng ta không
thể tin được điều Trung Quốc nói. Cài giàn khoan 981 là một cái giàn khoan rất đắt
tiền. Nó được thiết kế để đi vào chỗ nước sâu. Nó rất, rất là đắt tiền. Rồi Trung
Quốc đang bành trướng lực-lượng tuần duyên của họ, ngân-sách Quốc-phòng của họ
tăng trên 10 điểm mỗi năm. Phải mất
cả nhiều thập kỷ thì mới đảo ngược được.
Đó là chuyện khá rõ ràng. Không
ai thiết kế giàn khoan để ngồi ở nhà. Người ta đem chúng ra biển để tìm dầu và
khai thác. Trung Quốc tự thuyết-phục mình là trữ-lượng dầu khí ở Biển Đông là
tới bảy lần ước-lượng của phía Hoa-kỳ. Và như vậy ta có thể thấy là ở trong đầu
họ thì đây là một lượng tài-nguyên rất đáng kể và họ nhắm khai thác năng-lượng
ở đó. Và họ cũng để ý đến các nguồn lợi cá của địa-phương nữa.
Họ đã làm ô-nhiễm nguồn nước, làm
kiệt quệ các lượng cá ở đó nên họ xây tàu ngày càng lớn và cuối cùng thì thế
nào cũng đi đến đụng chạm, không chỉ riêng gì với Việt Nam và Phi Luật Tân là
chuyện đang xảy ra lúc này, mà còn cả với Mã-lai-á, Nam-dương, In-đô-nê-xia.
Và chúng ta đã trông thấy ở
hội-nghị CSIS, vị đại diện của Mã-lai-á đã tiết-lộ là ở Quốc-hội nước ấy gần
đây, nói bằng tiếng Mã-lai, ông Bộ-trưởng Quốc-phòng khi nói đến những xâm lấn
của Trung Quốc thì không phải chỉ có ở bãi ngầm James Shoal mà còn cả ở một
địa-điểm khác nữa, nghĩa là hai vụ khác nhau.
Và những nhận-định này đã được
ghi vào trong Công-báo của Mã-lai-á nhưng không được mấy ai để ý vì không có
bao nhiêu người đọc tiếng Mã-lai. Rồi đến lượt In-đô-nê-xia cũng đã yên ắng đưa
ra những video Youtube cho thấy nước này từ khá nhiều năm nay cũng đã có những
đụng độ giữa hải-quân họ với hải-quân Trung Quốc. Cả hai nước sau này đều đã
tăng cường sức mạnh quân-sự của họ, họ cũng đã nâng cấp quan-hệ quân-sự với
Hoa-kỳ nhưng làm một cách lẳng lặng, không lộ hẳn như Phi Luật Tân, nhưng những
xu-hướng đó thì vẫn đang tiếp tục.
Như vậy tương-lai sẽ không là một
vùng hòa-bình, ổn-định và hợp-tác mà sẽ là tranh chấp vì Trung Quốc không chỉ
vì năng-lượng, vì nghề cá, vì áp-chế quyền-lực của họ, vì gân guốc quân-sự của
họ đối lại với sự sa sút tương-đối, không hẳn là sa sút hoàn-toàn, của Mỹ trong
khi Trung Quốc thì đang đi lên.
Do đó, ở địa-vị của tôi ở
Úc-châu, như một đồng-minh của Mỹ, thì tôi rất đau lòng thấy những vụ xích mích
nội-bộ ở Hoa-thịnh-đốn, vấn-đề tài-trợ, thấy Mỹ ở trong một hoàn-cảnh không mấy
thuận-lợi.
Nhưng rồi Mỹ là một cường-quốc
toàn-cầu và nếu có chuyện không hay xảy ra ở Trung-đông thì Mỹ sẽ bị chia trí
và không tập trung được vào Á-đông Thái-bình-dương. Trong trường-hợp đó Trung
Quốc sẽ tìm cách thúc đẩy các lợi-ích của họ, không bằng phương-tiện quân-sự
nhưng bằng những phương-tiện khác. Và tất cả các quốc gia trong vùng sẽ phải
đương đầu với tình-trạng đó trong vài thập niên tới.
TAMMY PHAM: Ở Việt Nam tinh thần chống Trung Quốc là khá phổ biến như ta có thể
thấy trong các cuộc biểu tình cả trong nước lẫn ở ngoài này. Theo ông thì những cuộc biểu tình đó có
tác dụng gì không? Hay là người
Việt nên hành động, phản ứng ở tầm chiến lược hơn?
CARLYLE THAYER: Dân-tộc-chủ-nghĩa
và chủ-nghĩa yêu nước là một cái gươm hai lưỡi. Chúng rất tốt nếu dùng đúng dịp,
nhưng nếu chúng thúc đẩy chúng ta đến những hành-động hấp tấp quyết-định trong
lúc nóng nảy, những hành-động vội vã có thể trở thành phản tác-dụng.
Tôi nghe thấy ở trên các đài
hải-ngoại của người Việt đề nghị là Việt Nam nên nhào ra chộp lấy quân cờ đầu
trong một ván cờ tướng. Nhưng rồi
tôi nói, quý-vị biết chuyện gì không, Trung Quốc nó có tới hai lần số quân cờ
của mình nên ta phải cẩn thận. Nhưng những nhà dân-tộc-chủ-nghĩa ở Việt Nam đã không
tạo ra sự thuyết phục. Họ cho là
Thủ-tướng Dũng vì nói thẳng thừng nên uy-tín của ông ta nhảy vọt lên mặc dầu
trước đây, họ chỉ-trích ông ta về cách ông ta quản-lý kinh tế, do đó nên cũng
có những khác-biệt.
Về mặt này tuy cũng đã có những
phát biểu từ ông Chủ-tịch nước và ông Tổng-thư-ký đảng, là chúng ta phải bảo-vệ
chủ-quyền biển đảo. Song thực ra
là để thỏa mãn dư luận trong Việt Nam mà thôi. Việt Nam cần phải chứng tỏ với
Trung Quốc là những lực-lượng quốc-nội của Việt Nam thực-sự vững mạnh và những
chính-sách của Trung Quốc là sai lầm.
Nhưng nếu ta vặn ngược đồng-hồ
trở về những cuộc biểu tình lúc đầu, thì sau đó, đã có một đại diện Việt Nam đi
sang Trung Quốc và hai bên đã đồng-ý là nên lái dư-luận đó sang hướng khác. Và
thế là sau đó có đàn áp mấy vụ biểu tình ở trong nước.
Nhưng nay ta có thể thấy là đã có
một số trí-thức Việt Nam và đảng-viên về hưu, như vừa rồi ta thấy có ông Tương
Lai viết một bài xã-luận ở trên tờ New York Times; ông ta là một người tôi gặp
từ năm 1981, lúc bấy giờ hình như ông là một phát-ngôn-nhân của chính-phủ. Nhưng bây giờ ông đã về hưu và ông viết
như một ông quan xưa dùng hết cả uy-tín của ông ta có từ thời tham-chính để nói
lên sự bất bình của ông đối với vấn-đề ý-thức-hệ và tính e ngại rủi ro của Bộ
Chính-trị không muốn đảo lộn bất cứ điều gì.
Tôi không hẳn là khuyến cáo nên
làm điều gì vội vã, không suy nghĩ, nhưng tôi cũng cho là Việt Nam tự đóng lại các
lựa chọn của mình bằng cách không chấp nhận các tình tự dân-tộc. Việt Nam, cũng
như Úc-châu, nên phải có toàn-quyền lựa chọn chính-sách ngoại-giao của mình. Trung
Quốc cứ nói như trong thời chiến-tranh lạnh là “chúng tôi sẽ buôn bán với
quý-vị nhưng chuyện kia là không thể thương thảo” và cũng tương-tự, VN cũng
phải có cái ý-hướng muốn biết mình đi đâu, mình là ai. Nhất là tuổi trẻ.
Gần đây, tôi có dịp đi nói chuyện
ở một số đại-học địa-phương và họ đòi hỏi phải thảo-luận về Biển Đông. Tôi được nhắc nhở nhẹ nhàng là không
nên nói đến những chuyện mà nhiều quan-chức Việt Nam không thể nói được giữa công-chúng.
Nhưng chắc chắn là áp-lực sẽ ngày càng mạnh, nhất là vì sắp tới một Đại-hội
Đảng, tôi không nghĩ là ai có thể đắc cử trở lại ở trong Đảng nếu họ dám thúc
đẩy một chính-sách thỏa-hiệp với Trung Quốc.
Nhưng ngược lại cũng không thể là
một chính-sách chống đối không khoan nhượng, họ sẽ phải đưa ra một sự chuyển
hướng mới trong quan-hệ ngoại-giao của Việt Nam, trong đó ý-thức-hệ sẽ không
còn là một căn-bản để hợp-tác với Trung Quốc nữa mà cơ-sở đó phải là lợi-ích
quốc gia của Việt Nam.
TAMMY PHAM: Xin cám ơn ông đã chia sẻ những nhận định quý báu của ông trong buổi
phỏng vấn hôm nay.