Lê Phú Khải
Có
lần, Hán Cao Tổ Lưu Bang (202 trước Công nguyên) nói với Lục Giả: “Ta
ngồi trên lưng ngựa mà có được thiên hạ thì cần gì phải học Thi, Thư…”.
Nhưng rồi Hán Cao Tổ cũng nghe lời khuyên của Lục Giả trọng dụng kẻ sĩ,
đề cao Nho giáo để củng cố ngai vàng. Đến đời Hán Vũ Đế (140 trước Công
nguyên) thì đạo Nho trở thành quốc giáo. Khổng Tử (sinh năm 551 trước
Công nguyên, thọ 73 tuổi), người được xem là sáng lập ra Nho giáo được
tôn lên bực thánh, trở thành Vạn thế sư biểu (người thầy của muôn đời).
Điều
cốt lõi của Khổng giáo là lý thuyết về người quân tử, tức kẻ cai trị
đất nước (quân là cai trị, quân tử là người cai trị). Theo Khổng Tử thì
người quân tử phải biết tu thân, phải có đạo đức và biết thi, thư, lễ,
nhạc… Tu thân rồi, người quân tử phải dấn thân hành động: tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ! Người quân tử phải chính danh để cai trị đất nước.
Các triều đại phong kiến sau này đều triệt để khai thác Khổng giáo, họ
biến đổi, “gia cố” Nho giáo thành một triết thuyết cực đoan có lợi cho
giai cấp thống trị. Chữ đạo của Khổng Tử là những mối quan hệ phải có
trong xã hội thời đó như đạo vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn
hữu… sau này chỉ còn ba quan hệ vua-tôi, cha-con, chồng-vợ với cái logic
phản động và phản dân chủ nhất: quân sử thần tử, thần bất tử bất trung
(vua bảo chết, thần không chết là bất trung); phụ sử tử vong, tử bất
vong bất hiếu (cha bảo con chết, con không chết là bất hiếu); với phụ nữ
thì: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử (ở nhà thì
phải theo cha, lấy chồng thì phải theo chồng, chồng chết phải theo con).
Trong chế độ phong kiến,
nhân dân đã tiếp thu những “đạo lý” đó như người khát nước uống thuốc
độc để giải khát. Chế độ phong kiến tàn bạo và thối nát ở Trung Quốc đã
nhờ triết thuyết của Khổng giáo mà tồn tại và kéo dài cho đến cách mạng
Tân Hợi 1911.
Vì thế, nhà văn hoá Nguyễn Khắc
Viện (1913-1997) đã phê phán Nho giáo một cách triệt để: “Trên phương
diện chính trị, Nho giáo chủ yếu là bảo thủ. Nó bỏ qua vấn đề pháp luật
và thiết chế, từ chối mọi cải cách… Bảo vệ lễ nghi của các triều đại xưa
là mối quan tâm hàng đầu của Khổng Tử. Trong chữ lễ, vương triều Trung
Hoa cũng như Việt Nam đã tìm thấy biện pháp tốt nhất để duy trì sự ổn
định của ngai vàng” (Bàn về đạo Nho – nguyên văn tiếng Pháp đăng trên
tạp chí La Pensée số 10-1962 với đề là Confucianisme et Marxisme au
Vietnam. Dịch sang tiếng Việt, in trong Bàn về Đạo Nho – 1993).
Với
Khổng giáo, vua là Thiên tử (con Trời), thay Trời cai trị muôn dân. Vua
với nước là một. Yêu nước là trung với Vua (trung quân ái quốc).
Điều
nguy hiểm nhất của triết thuyết Khổng Tử là: Người quân tử nhờ tu thân
mà có vai trò cai trị, nhưng khi quân tử – tức kẻ cai trị – không tu
thân, trở thành những hôn quân bạo chúa thì dân chúng vẫn phải cam chịu,
không được làm cách mạng lật đổ chúng. Vì thế Nguyễn Khắc Viện mới
viết: Khổng Tử từ chối mọi cải cách!
Trong xã
hội Khổng giáo mấy ngàn năm ở Trung Quốc, kẻ sĩ đi học là mong được làm
quan. Làm quan để được quỳ lạy dưới ngai vàng. Cái văn hoá quỳ lạy ấy đã
kìm hãm nước Trung Hoa trong vòng tăm tối mấy ngàn năm. Trong nền văn
hoá quỳ lạy ấy, chỉ có kẻ trên đúng. Chỉ có vua đúng. Vua bảo chết là
phải chết. Cha bảo chết thì con phải chết. Tóm lại là không có chân lý.
Hay nói khác đi, không ai đi tìm chân lý cả. Chân lý đã có sẵn ở kẻ bề
trên, ở triều đại chính thống, bất kể nó thế nào!
Điều
trớ trêu là văn hoá quỳ lạy ấy còn tồn tại đến hôm nay ở nước Trung Hoa
cộng sản. Tướng Lưu Á Châu, một nhà bình luận nổi tiếng ở Trung Quốc
hiện nay kể rằng, khi ông đi học một lớp chính trị trong quân đội, thấy
thầy giảng chướng quá, ông đứng lên thắc mắc. Ông thầy liền nói: Tại sao
anh dám cãi lại tôi? Tướng Lưu Á Châu thất vọng, vì thầy đã không dám
hỏi: “Vì sao anh lại nói như thế?”, rồi tranh luận để tìm ra chân lý.
Thầy chỉ phán: “Vì sao anh dám cãi lại tôi?!”. Thầy luôn đúng. Trò không
được cãi.
Nước Trung Hoa cộng sản hôm nay vẫn nguyên hình là một xã hội Khổng Mạnh trá hình mà thôi!
Trong
khi đó thì ở phương Tây, cùng thời với Khổng Tử, Aristote (384-332
trước CN) đã tuyên bố: “Platon là thầy tôi, nhưng chân lý còn quý hơn
thầy!”. Cái văn hoá chân lý quý hơn thầy ấy đã dẫn dắt phương Tây trở
thành một xã hội dân chủ và văn minh đến ngày hôm nay.
Việt
Nam chúng ta từng một ngàn năm Bắc thuộc, lại luôn chịu ảnh hưởng của
người láng giềng hủ bại Trung Hoa, nên tầng lớp có học của nước ta thấm
đẫm thứ văn hoá quỳ lạy của Trung Hoa. Trí thức nước ta trong mấy ngàn
năm lịch sử chỉ lo dùi mài kinh sử để mong đỗ đạt làm quan, để được quỳ
lạy trước sân rồng. Có người già rồi còn đi thi, suốt đời ăn bám vợ con.
Việc làm ra của cải vật chất đều do người phụ nữ và những người ít chữ
gánh vác. Trí thức Việt Nam trong quá khứ không ai học để làm cách mạng,
để thay đổi đất nước. Hình ảnh con trâu đi trước, cái cày theo sau còn
tồn tại đến hôm nay ở nông thôn miền Bắc là kết quả của tư duy làm quan,
tư duy quỳ lạy. Báo chí của Việt Nam hôm nay hay ca ngợi một bà mẹ đi
bán hàng rong mà nuôi được bốn năm người con học đại học. Học để mong
kiếm một mảnh bằng vênh vang với làng xóm! Học để mong kiếm một cái chân
trong cơ quan nhà nước, để trở thành một anh công chức, một anh nha
lại, trên bảo dưới phải nghe.
Khi bàn về việc
trọng dụng đội ngũ trí thức, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có lần nói, đại
ý, xung quanh thủ tướng toàn là những người có bằng cấp cao, thạc sĩ,
tiến sĩ… toàn là trí thức!
Thực ra các vị đó chỉ
là những công chức, không phải trí thức. Mà đã là công chức thì trên
bảo gì dưới phải nghe theo. Nếu không nghe thì “văng” ra khỏi bộ máy
quyền lực ngay lập tức. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện lúc bình sinh có nói với
người viết bài này: “Tư bản Pháp chỉ tuyển chọn vào bộ máy những người
đỗ đạt cao. Vì thế, khi vào một cơ quan công quyền, người ta biết rõ
những người ngồi đó đều là người tài giỏi, vì thế, họ vừa có quyền, lại
vừa có uy. Thế mới gọi là uy quyền. Nhưng quyền uy mấy thì cũng là công
chức. Nhân dân Pháp chỉ kính trọng những trí thức tự do, vì họ dám phản
biện xã hội, bảo vệ lẽ phải. Nước Pháp có hàng trăm nghìn hội đoàn độc
lập. Đó là một lực lượng dân chủ hùng mạnh để cân bằng với chính quyền
của giai cấp tư bản”.
Buồn thay, bộ máy công
quyền của Việt Nam hôm nay chỉ tuyển chọn những người “dễ bảo” hoặc biết
“mua bán”. Vì thế nó ngày càng xuống cấp. Có lần, trong một cuộc gặp gỡ
có nguyên Bộ trưởng L.H.N., phó giáo sư tiến sĩ V.T.K. và người viết
bài này, trong lúc vui vẻ, phó giáo sư V.T.K. than phiền với Bộ trưởng
L.H.N.: Mấy tay vụ trưởng đi theo anh chuyến này vô Nam, qua nói chuyện
tôi thấy các vị đó dốt quá! Nguyên Bộ trưởng L.H.N. nói: Ngày xưa dốt là
từ cấp thứ trưởng trở lên, cấp vụ nó giỏi lắm, nay nó dốt xuống đến cấp
vụ rồi!!!
Từ nền văn hoá làm quan, văn hoá quỳ
lạy, đã hình thành một tâm lý xin-cho trong xã hội. Khi nhóm Cánh Buồm
của nhà giáo Phạm Toàn soạn thảo bộ sách Học tiếng Việt cho học sinh lớp
1 theo hướng cải cách giáo dục, tôi đến chơi một người bạn cũ từng là
một quan chức cao cấp, từng ở nước ngoài nhiều năm, có học thức cao… và
tặng ông một trong các cuốn sách Học tiếng Việt đó. Cầm sách trong tay,
ông nói ngay: Họ không cho lưu hành đâu anh ạ! Thì ra cái tâm lý xin-cho
đã ngấm vào xương tuỷ giới trí thức nước ta. Trên phải cho thì dưới mới
được làm! Dù chưa ai cấm đoán bao giờ!
Ít lâu
sau, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có ý kiến phải đưa Hoàng Sa, Trường Sa
vào sách giáo khoa cho học sinh phổ thông học. Thế là tôi viết giới
thiệu bài tập đọc “Lễ thả thuyền ra Hoàng Sa…” đã có trong sách Tiếng
Việt lớp 1 của nhóm Cánh Buồm. Báo Người Lao động TP HCM đã đăng ngay
bài đó trong tháng 1-2014 (vì… Thủ tướng đã… cho… nói về Hoàng Sa và
Trường Sa!!!).
Ngày nay nước ta đã manh nha
kinh tế thị trường, có bao nhiêu điều kiện và cơ hội để học làm người tự
do, làm khoa học, làm chuyên môn, làm nghề… làm ra của cải cho một đất
nước “đói nghèo trong rơm rạ” (Chế Lan Viên) thì trí thức nước ta cần
mau chóng giã từ nền văn hoá làm quan, văn hoá quỳ lạy có cội nguồn từ
văn hoá Khổng Mạnh Trung Hoa để canh tân đất nước.
Để
kết thúc bài viết này, tôi xin kể một câu chuyện về giáo sư Nguyễn Đăng
Hưng, ông sinh năm 1941 tại xã Điện Thắng Bắc huyện Điện Bàn tỉnh Quảng
Nam. Hiện ông là một Việt kiều ở Bỉ, hoạt động trong lĩnh vực khoa học
không gian. Ông là một nhà khoa học rất nổi tiếng, là “một trong 10
người làm thay đổi nước Bỉ” như cách nói của chính phủ Bỉ. Ông giảng dạy
ở bậc đại học đã nhiều năm, từng là trưởng Khoa Cơ học phá huỷ thuộc
Khoa Kỹ thuật không gian Đại học Liège. Một ngày kia, đồng nghiệp của
ông “phát hiện” ra ông chỉ có bằng kỹ sư, chưa có bằng tiến sĩ như bao
đồng nghiệp khác đang làm việc cùng ông. Người ta đề nghị giáo sư Nguyễn
Đăng Hưng làm hồ sơ để thi tiến sĩ. Khi giáo sư Hưng tập hợp các công
trình mình đã làm và đã được ứng dụng trong sản xuất để trình Hội đồng,
chuẩn bị cho luận án tiến sĩ sẽ làm, thì Hội đồng nhất trí cao rằng ông
xứng đáng là tiến sĩ từ lâu rồi, khỏi cần thi! Tại một quán càfê ở đường
Phạm Ngọc Thạch Quận 1 TP HCM cuối năm 2013 vừa qua, giáo sư Hưng tâm
sự với chúng tôi: Mải làm việc quá nên tôi… quên làm tiến sĩ.
Bao
giờ cái văn hoá học để làm việc thay thế được văn hoá làm quan, văn hoá
quỳ lạy trong giới tinh hoa ở nước ta, thì Việt Nam mới mở mày mở mặt
được.
Tháng 6-2014
L. P. K.