|
|
Sắt thép là một trong10 nhóm hàng Việt Nam nhập khẩu lớn từ Trung Quốc. Ảnh: TL. |
(TBKTSG) - Để gìn giữ độc lập dân tộc, người Việt Nam sẽ phải tìm cách
giữ thăng bằng trên một lằn ranh mong manh, dưới bóng đè của người láng
giềng khổng lồ đầy mưu tính.
Trong bối cảnh căng thẳng trên biển Đông ngày một gia tăng, nhiều người
đã đề cập tới nguy cơ Trung Quốc cấm vận kinh tế đối với Việt Nam. Thậm
chí, một số người còn cho rằng việc Việt Nam chần chừ, chưa khởi kiện
Trung Quốc ra tòa án quốc tế là do e ngại nguy cơ bị Trung Quốc cấm vận.
Trong bài viết này, chúng tôi chủ yếu tập trung phân tích quan hệ
thương mại - vốn là lĩnh vực quan hệ kinh tế quan trọng nhất giữa Việt
Nam và Trung Quốc, qua đó chỉ ra rằng mặc dù việc cấm vận kinh tế của
Trung Quốc (nếu có) có thể gây ra những tác động tiêu cực trong ngắn
hạn, nhưng trong trung và dài hạn, Việt Nam sẽ có động cơ mạnh mẽ để vừa
tăng cường nội lực vừa đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, nhờ đó
giảm sự phụ thuộc kinh tế đối với Trung Quốc.
Bên cạnh đó, bài viết cũng sẽ thảo luận ngắn gọn về mối quan hệ chính trị giữa hai quốc gia.
Quan hệ chính trị
Ngoại trừ sự gián đoạn từ năm 1979 đến 1989, đảng - nhà nước Việt Nam
và Trung Quốc đã duy trì quan hệ trong nhiều thập kỷ. Tuy nhiên, mối
quan hệ này luôn ở trong tình trạng bất cân xứng. Sự trịch thượng của
Trung Quốc luôn xuyên suốt, thể hiện qua sự can thiệp sâu và thô bạo vào
chính sự của Việt Nam - không chỉ về chính sách, mà còn về cả nhân sự
và ngoại giao.
Mới đây thôi, Thời báo Hoàn cầu của Trung Quốc mô tả chuyến đi
của ông Dương Khiết Trì, Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc, sang Việt Nam
không chỉ như sự dạy dỗ của một ông giáo kiên nhẫn đối với gã sinh viên
ương ngạnh, mà còn như người cha nghiêm khắc đối với “đứa con đi hoang”
chưa chịu về nhà. Trong bối cảnh Bắc Kinh luôn nhạy cảm và sẵn sàng can
thiệp vào chính sự của Việt Nam, không rõ liệu Hà Nội có muốn và có thể
đi trước trong cải cách chính trị hay không.
Mặt khác, dù muốn hay không, dù sớm hay muộn thì thay đổi chính trị
cũng sẽ xảy ra ở Trung Quốc. Những thay đổi căn bản về kinh tế - xã hội ở
Trung Quốc trong hơn ba thập kỷ qua, đặc biệt là sự mở rộng nhanh chóng
của tầng lớp trung lưu trong khi dân số đang già đi, khiến cho tham
nhũng, bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường và sự hà khắc của chính quyền
ngày càng trở nên khó chấp nhận. Rõ ràng là hệ thống chính trị của Trung
Quốc cần trở nên linh hoạt và đáp ứng hơn trước yêu cầu của người dân.
Chiến dịch chống tham nhũng mạnh mẽ của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận
Bình, ngay cả khi xuất phát từ động cơ chân chính, cũng sẽ chỉ là con
dao hai lưỡi nếu không đi đôi với cải cách hệ thống chính trị vốn là
nguồn gốc chính của nạn tham nhũng.
Bất kể kịch bản tự do hóa chính trị ở Trung Quốc xảy ra như thế nào thì
sớm muộn gì Việt Nam cũng sẽ bị ảnh hưởng. Không những thế, Việt Nam sẽ
khó giữ vị thế bảo thủ hơn Trung Quốc vì ở Việt Nam không có một “vạn
lý trường thành” để ngăn chặn thông tin từ bên ngoài, nhất là khi Việt
Nam có tỷ lệ giới trẻ vào internet thuộc loại cao nhất thế giới. Như
vậy, tự do hóa chính trị ở Việt Nam gắn liền với Trung Quốc theo cả hai
hướng. Thực tế này cần phải được suy xét thấu đáo trong chiến lược phát
triển của Việt Nam.
Bối cảnh xã hội và chính trị trong nước cũng sẽ ảnh hưởng đến lập
trường của Trung Quốc trong các mối quan hệ song phương với Việt Nam nói
riêng và ở châu Á nói chung. Với gần 840 triệu dân (chiếm 62% dân số)
trong độ tuổi từ 15 đến 54 - những người hoặc đang trong độ tuổi thanh
niên hoặc đã trải qua tuổi thanh niên khi cuộc chiến tranh biên giới
1979 xảy ra - trong đó nam nhiều hơn nữ tới gần 26 triệu, thì ngọn lửa
dân tộc chủ nghĩa có thể bị thổi bùng lên bất cứ lúc nào, không chỉ trên
các diễn đàn trực tuyến mà ngay trong chính sách quân sự và đối ngoại
của Trung Quốc. Không chính trị gia Trung Quốc nào muốn bị coi là “bạc
nhược” trong việc bảo vệ “lợi ích sống còn” của quốc gia, ngay cả khi
những lợi ích này không hề có cơ sở pháp lý quốc tế. Hiểu rõ các động
lực xã hội và chính trị này của các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể giúp
Việt Nam tránh được các cuộc đối đầu đắt giá.
Quan hệ thương mại
Quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc quan trọng
hơn đối với Việt Nam. Trung Quốc hiện là nguồn nhập khẩu lớn nhất và mới
đây vượt qua Nhật Bản để trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của
Việt Nam. Kể từ năm 2000, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
sang Trung Quốc dao động xung quanh mức 10%. Ngược lại, tỷ trọng kim
ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc tăng từ 9% vào năm 2000 lên tới gần 28%
vào năm 2013.
Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu từ Trung Quốc sang Việt Nam chiếm chưa
tới 2% tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc. Kết quả của quan hệ
thương mại không cân xứng này là nếu như vào năm 2000, Việt Nam còn xuất
siêu nhẹ sang Trung Quốc thì đến năm 2013, nhập siêu từ Trung Quốc đã
lên tới gần 24 tỉ đô la Mỹ.
Thoạt nhìn, có vẻ như rất đáng lo ngại khi ngoại trừ sắt thép, tỷ trọng
nhập khẩu từ Trung Quốc của cả 10 nhóm hàng nhập khẩu lớn nhất đều tăng
rất nhanh trong thập niên vừa qua (hình 1). Tuy nhiên, ngay cả trong 10
nhóm hàng nhập khẩu lớn nhất thì mức độ phụ thuộc vào Trung Quốc cũng
không đồng đều (biến thiên từ mức thấp nhất 10,1% đối với chất thải công
nghiệp thực phẩm và thức ăn gia súc đến mức cao nhất 41,8% của xơ nhân
tạo).
Bên cạnh đó, khoảng ba phần tư hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam có nguồn
gốc ngoài Trung Quốc. Tóm lại, sự phụ thuộc vào nhập khẩu từ Trung Quốc
ngày một tăng, và điều này là đáng lo ngại, song mức độ phụ thuộc không
đến nỗi làm sụp đổ nền sản xuất trong nước khi có biến cố xảy ra.
Ở thời điểm này, Chính phủ Việt Nam cần quan tâm thích đáng đối với
các dự án liên quan đến tài nguyên (khai thác bauxite hay thuê rừng đầu
nguồn), năng lượng, và những ngành có sự tham gia của nhiều lao động phổ
thông Trung Quốc. |
Liệu xu hướng gia tăng phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu từ Trung Quốc có
phải là một vấn nạn của Việt Nam? Nó sẽ là vấn nạn nếu thâm hụt có nguồn
gốc từ hoạt động thương mại “không công bằng” hoặc do chính sách có chủ
đích của Bắc Kinh. Tuy nhiên, có vẻ như với chính sách phá giá đồng
tiền hay trợ cấp sản xuất trong nước, Trung Quốc “không công bằng” với
cả thế giới chứ không riêng gì đối với Việt Nam. Tất nhiên Việt Nam cũng
cần chuẩn bị trước cho tình huống Trung Quốc chủ tâm thao túng nền công
nghiệp và thương mại của mình để có các đối sách thích hợp.
Cũng cần nói thêm rằng nếu Bắc Kinh thực sự duy lý thì họ không những
sẽ không cấm vận thương mại đối với Việt Nam mà còn tìm cách thúc đẩy
cán cân thương mại nghiêng tiếp về phía họ càng nhiều càng tốt. Logic
này không nhất thiết áp dụng đối với các khoản đầu tư trực tiếp nước
ngoài hay tín dụng thương mại từ Trung Quốc.
Một vấn nạn tiềm tàng khác là nguồn nhập khẩu tư liệu sản xuất quan
trọng từ Trung Quốc có thể bị cắt đột ngột khi quan hệ giữa hai nước trở
nên căng thẳng. Ví dụ như nếu nguồn nguyên phụ liệu dệt may từ Trung
Quốc bị cắt thì trong ngắn hạn, chắc chắn việc làm và kim ngạch xuất
khẩu trong ngành này sẽ giảm mạnh. Tác động trong trung và dài hạn sẽ
phụ thuộc vào tốc độ và mức độ tìm được nguồn cung thay thế, cả trong và
ngoài nước. Vì Trung Quốc không phải là nước duy nhất xuất khẩu phụ
liệu dệt may - cụ thể là Trung Quốc chỉ chiếm khoảng 22% thị trường
bông, 27% thị trường xơ nhân tạo, và 31% thị trường sợi nhân tạo toàn
cầu - cho nên sẽ không quá khó để Việt Nam có thể tìm nguồn cung thay
thế. Hơn nữa, vì khu vực FDI ở Việt Nam cũng đã bắt đầu bước vào ngành
này nên nguồn cung trong nước sẽ trở nên dồi dào hơn.
Nói tóm lại, mặc dù cần có những biện pháp phòng ngừa cho tình huống
xấu nhất - chẳng hạn như bằng cách bắt đầu tìm kiếm và thẩm định một số
nguồn cung thay thế, song không nhất thiết phải cắt giảm hay từ bỏ các
nguồn cung từ Trung Quốc nếu chúng rẻ hơn hay chất lượng tốt hơn. Logic
này cũng áp dụng cho các ngành khác như điện tử, da giày hay xe máy. Cần
nói thêm là vì đa số các hoạt động thương mại này là giữa các công ty
tư nhân nên ngay cả khi muốn thì Bắc Kinh cũng không thể dễ dàng ra lệnh
chấm dứt hoàn toàn hoạt động xuất khẩu, hay ngăn cấm tuyệt đối việc
xuất khẩu qua nước thứ ba.
Khoảng 40% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc là máy móc và
hàng tiêu dùng. Nếu Trung Quốc chủ động giảm xuất khẩu các hàng hóa này
sang Việt Nam thì Việt Nam sẽ luôn có thể tìm kiếm các nguồn nhập khẩu
thay thế hoặc phát triển năng lực sản xuất nội địa, nhờ đó đa dạng hóa
được nguồn cung, đồng thời giảm tỷ trọng nhập khẩu từ Trung Quốc.
Cho đến thời điểm này, những phân tích của chúng tôi mới chỉ nhấn mạnh
khía cạnh tiêu cực của sự phụ thuộc thương mại của Việt Nam vào Trung
Quốc. Tuy nhiên, trong thế giới càng ngày càng toàn cầu hóa, các mối
quan hệ thương mại luôn có tính tương thuộc. Mặc dù tỷ trọng nhập khẩu
của Trung Quốc từ Việt Nam trong năm 2012 chưa tới 1%, nhưng một số nhóm
hàng có tỷ lệ nhập khẩu từ Việt Nam khá lớn, chẳng hạn như trái cây
(16,6%), ngũ cốc (19%), rau củ quả (21,7%), cà phê, chè, gia vị (37,2%).
Điều này có nghĩa là Trung Quốc cũng sẽ phải trả giá nhất định nếu cấm
vận thương mại đối với Việt Nam.
Không những thế, việc cấm vận thương mại của Trung Quốc với Việt Nam
(nếu có) còn đi ngược lại lợi ích của Trung Quốc trên hai phương diện
quan trọng. Thứ nhất, đứng trước nguy cơ bị cấm vận, Việt Nam một mặt sẽ
phải nỗ lực tăng cường nội lực, mặt khác tìm cách đa dạng hóa thương
mại và đầu tư, chẳng hạn như thông qua TPP. Kết quả là Việt Nam sẽ trở
nên ít phụ thuộc hơn vào Trung Quốc, điều mà Trung Quốc không muốn. Thứ
hai, các đối tác thương mại khác của Trung Quốc, nhất là trong khu vực
châu Á - Thái Bình Dương sẽ không thể coi Trung Quốc là đối tác thương
mại đáng tin cậy được nữa, và do vậy cũng sẽ chuyển hướng thương mại ra
khỏi Trung Quốc.
Tạm kết luận
Trong những năm tới, Việt Nam không thể tránh được một thực tại khách
quan, đó là người láng giềng phương Bắc sẽ sớm trở thành nền kinh tế lớn
nhất thế giới và tiếp tục phủ bóng lên nền kinh tế Việt Nam. Đối diện
với thực tại này, thay vì tìm cách hạn chế quan hệ kinh tế giữa hai
nước, một cách khôn ngoan hơn, Việt Nam cần chủ động tăng cường nội lực,
đồng thời đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế. Chiến lược này vốn dĩ
đã cần thiết ngay cả khi quan hệ giữa hai nước “bình thường” thì lại
càng thiết yếu khi quan hệ giữa hai nước trở nên bất thường.
Bài viết này lập luận rằng trên phương diện thương mại (và tương tự như
vậy trên phương diện đầu tư), chính sách cấm vận của Trung Quốc (nếu
có) mặc dù sẽ gây tổn thất đáng kể cho nền kinh tế Việt Nam, tuy nhiên
những tổn thất này chủ yếu có tính ngắn hạn. Trong trung và dài hạn, sức
ép buộc phải điều chỉnh sẽ đưa nền kinh tế Việt Nam dần thoát khỏi tình
trạng “bóng đè”, trở nên độc lập và bền bỉ hơn trước mọi cú sốc đến từ
người láng giềng phương Bắc.
Nếu tỷ trọng nhập khẩu từ Trung Quốc tiếp tục bành trướng, hay Trung
Quốc có xu hướng kiểm soát các lĩnh vực thương mại và đầu tư trọng yếu
thì Việt Nam cần triển khai những đối sách thích hợp. Ở thời điểm này,
Chính phủ Việt Nam cần quan tâm thích đáng đối với các dự án liên quan
đến tài nguyên (khai thác bauxite hay thuê rừng đầu nguồn), năng lượng,
và những ngành có sự tham gia của nhiều lao động phổ thông Trung Quốc.
Nói tóm lại, về mặt kinh tế, Việt Nam cần tìm cách để được hưởng lợi từ
sự phát triển năng động của Trung Quốc nhưng đồng thời không bị chi
phối bởi quy mô và cự ly của nó. Về mặt chính trị, Việt Nam một mặt
không muốn Trung Quốc coi mình là mối đe dọa thường trực, nhưng đồng
thời vẫn phải tìm cách duy trì sự độc lập và tự chủ. Để gìn giữ độc lập
dân tộc, người Việt Nam sẽ phải tìm cách giữ thăng bằng trên một lằn
ranh mong manh, dưới bóng đè của người láng giềng khổng lồ đầy mưu tính.
|
|