Theo Quê Choa
Cao Thị Xuân Phượng ( Vợ nhà báo Trương Duy Nhất)
Trước phiên tòa xét xử phúc thẩm chồng tôi - nhà báo Trương Duy Nhất
(26/6/2014), tôi đã có Đơn cứu xét gửi Tòa Phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tối
cao tại Đà Nẵng. Trong đơn, tôi trình bày ý kiến của cá nhân về những
bất hợp lý, những việc thực thi không đúng luật định tại phiên tòa sơ
thẩm.
Viện Kiểm sát không đủ căn cứ, cơ sở để buộc tội chồng tôi, nhưng
Hội đồng xét xử sơ thẩm cố tình suy diễn, qui chụp kết tội chồng tôi
“lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” qui định tại Điều 258 - Bộ
luật Hình sự với bản án 2 năm tù giam. Bản án không thuyết phục, gây
nhiều bức xúc trong dư luận.
Khi tôi nói về ý định viết đơn này, nhiều bạn bè cho rằng tôi thiếu thực tế, bởi chẳng có vị quan tòa nào quan tâm đến ý kiến của những thường dân như tôi. Nhưng tôi vẫn viết bởi tôi vẫn còn tin vào công lý, hy vọng những bất hợp lý tại phiên tòa sơ thẩm sẽ không lặp lại ở phiên phúc thẩm, hy vọng các vị quan Tòa phúc thẩm sẽ thực thi luật pháp bằng lương tâm và trách nhiệm, sáng suốt nhìn nhận vụ việc chồng tôi, xét xử công minh, đem lại một bản án phúc thẩm thấu tình đạt lý.
Thế nhưng tất cả không như tôi hy vọng.
1. Vào cổng:
Vẫn “bổn cũ soạn lại”, như phiên sơ thẩm chỉ có thay đổi nhỏ là ngoài 2 mẹ con tôi, có thêm 5 người thân trong gia đình chồng tôi được tham dự phiên tòa, còn lại bạn bè, đồng nghiệp, người thân của gia đình tôi đều phải đứng bên ngoài với lý do không có chỗ ngồi. Lý do không thuyết phục, bởi để Tòa không thể viện cớ hết chỗ ngồi như phiên sơ thẩm, gia đình tôi đến rất sớm. Đúng 6h sáng, tại cổng tòa, chưa có ai ngoài gia đình tôi. Bên trong cổng tòa, một số cán bộ đang làm nhiệm vụ. 6h 20 phút, tôi hỏi một cán bộ: “Gia đình tôi được vào phòng xét xử chưa?”. Anh ta trả lời: “Bộ phận phục vụ đang dọn dẹp phòng nên chờ”. Tôi vẫn đứng tại cổng quan sát, lúc này một số phóng viên có mặt, họ xuất trình giấy tờ, kiểm tra các thiết bị kỹ thuật khi qua cổng kiểm tra an ninh. Ngoài các phóng viên, có nhiều người đi xe máy vào thẳng cổng tòa, không qua kiểm soát giấy tờ, mà theo giải thích của một người có trách nhiệm thì họ là cán bộ của Tòa. 6h 30 phút, tôi hỏi anh cán bộ khi nãy: “Giờ thì gia đình tôi vào được chưa?” Vẫn câu trả lời: “Phòng xét xử chưa dọn dẹp xong”. Tôi hỏi: “Nghĩa là chưa có ai tham dự phiên tòa có mặt ở phòng xét xử?” Anh ta xác nhận: “Chưa có”. Thế nhưng, đến 7h kém 15, tôi đề nghị để gia đình tôi vào dự phiên tòa thì anh ta bảo: “Không còn chỗ ngồi”, nên chỉ cho 7 người trong gia đình tôi vào (trước khi vào xuất trình chứng minh nhân dân và gửi điện thoại), còn lại đứng ngoài. Lạ thật, trong vòng 15 phút đó, tôi quan sát rất kỹ ngoài các phóng viên, không có ai qua cổng kiểm tra an ninh. Chẳng lẽ những người hiện đang có mặt tại phòng xét xử có phép biến hóa giống Ngộ Không?
2. Tại phiên tòa:
Một phiên tòa mà chủ tọa sử dụng quá nhiều câu mệnh lệnh: “Tòa yêu cầu luật sư dừng lại!”, “Tòa yêu cầu bị cáo dừng lại!”, “Nếu không dừng, tòa mời luật sư ra ngoài!”… Một phiên tòa như cách nói hình ảnh của chồng tôi là “Tòa bịt miệng luật sư và bị cáo”.
- Trước khi bắt đầu phần xét hỏi, chồng tôi và luật sư đề nghị Tòa giải thích tại sao không triệu tập đại diện của các tổ chức Nhà nước mà Cáo trạng cho là những đối tượng bị hại đến phiên tòa để làm sáng tỏ vụ án. Về việc này, chồng tôi và luật sư xác nhận là đã có kiến nghị gửi Tòa. Theo luật sư, triệu tập các đối tượng này là cần thiết bởi kết tội Trương Duy Nhất xâm phạm quyền, lợi ích của Nhà nước, thì phải triệu tập đại diện của các tổ chức Nhà nước đến phiên tòa để họ chỉ ra là Trương Duy Nhất đã xâm phạm đến lợi ích nào của Nhà nước, được quy định tại điều khoản nào, của văn bản pháp luật nào, và hậu quả ra sao? Luật sư cũng cho rằng cần thiết phải triệu tập các cá nhân ký trong bản Kết luận Giám định (KLGĐ) của Bộ Thông tin - Truyền thông (TT-TT) bởi KLGĐ này không có giá trị pháp lý, trong khi đó Cơ quan An ninh điều tra và Viện Kiểm sát (VKS) lại căn cứ vào đó để kết luận và buộc tội Trương Duy Nhất.
Đề nghị xác đáng, phù hợp với luật định, song phần trình bày của luật sư liên tục bị chủ tọa yêu cầu dừng lại và bị bác bỏ với lý do: “Xét thấy không cần phải triệu tập các vị này”.
- Phần hỏi - đáp của luật sư và chồng tôi nhiều lần cũng bị chủ tọa cắt ngang, mặc dù chồng tôi đã đề nghị Tòa phải thực hiện đúng luật định, tạo điều kiện để bị cáo trình bày. Ngay cả những câu hỏi trọng tâm nhất nhằm đi sâu phân tích, làm rõ nội dung, động cơ, mục đích viết từng bài viết của chồng tôi cũng bị chủ tọa ngăn cản. Chủ tọa yêu cầu luật sư gộp 12 bài viết trong 1 câu hỏi, mặc dù luật sư cố gắng giải thích để chủ tọa hiểu mỗi bài có nội dung, tình tiết, động cơ, mục đích viết khác nhau. Vả lại, bản KLGĐ cũng phân tích từng bài thì phải để bị cáo trình bày từng bài nhưng vẫn không được chấp nhận và luật sư còn bị cảnh cáo nếu không chuyển sang câu hỏi khác sẽ bị mời ra khỏi phiên tòa. Cuộc hỏi - đáp của luật sư và chồng tôi tiếp tục, song cứ đến những phần chồng tôi dừng lại phân tích những bài viết mà Cáo trạng cáo buộc nhằm làm sáng rõ động cơ, mục đích, thiện chí của anh khi viết đều bị Tòa cản ngăn, yêu cầu dừng lại với lý do “Tòa đã biết rồi”.
- Phần bào chữa của luật sư Trần Vũ Hải cũng không liền mạch, nhiều lần chủ tọa dọa mời luật sư rời khỏi phòng xét xử và yêu cầu cảnh sát can thiệp, buộc luật sư dừng lại. Tuy nhiên, luật sư cũng đã cố gắng hoàn thành phần bào chữa của mình, đã đưa ra được những luận cứ bác bỏ các cáo buộc của đại diện VKS và đặc biệt nhấn mạnh các vấn đề sau:
* Sự không tin cậy của bản KLGĐ: Theo luật sư, những thành viên ký trong bản KLGĐ không phải là những giám định viên hợp lệ vì danh sách những giám định viên này không được đăng trên trang điện tử của Bộ TT-TT như luật Giám định Tư pháp qui định. Chưa có cơ sở xác định những người này có đủ năng lực xem xét nội dung những bài viết của Trương Duy Nhất, có những giám định viên là chuyên viên công nghệ thông tin thì làm sao thẩm định được các bài viết trên. Vì vậy, theo luật sư bản KQGĐ không đủ độ tin cậy. Căn cứ vào bản KLGĐ không có cơ sở pháp lý để kết tội Trương Duy Nhất nên Cáo trạng của VKS Tối cao cũng không có cơ sở pháp lý.
* Nghiên cứu Hiến pháp 2013, luật sư xác định: lợi ích Nhà nước là những lợi ích vì dân, vì dân giàu nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh, vì một nền pháp quyền. Trên cơ sở quan niệm này, luật sư khẳng định không có căn cứ xác định 12 bài viết, đăng của Trương Duy Nhất xâm phạm đến lợi ích Nhà nước. Những bài viết này là ý kiến của Trương Duy Nhất (và 1 bạn đọc khác) đánh giá tình hình đất nước, nhận xét một số lãnh đạo Đảng, Nhà nước, thực hiện quyền tự do ngôn luận, quyền giám sát của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước như pháp luật qui định.
* VKS truy tố Trương Duy Nhất theo khoản 2, điều 258 (phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng), nhưng không đưa ra được những căn cứ xác định tình tiết nghiêm trọng. Bản án sơ thẩm cũng đã tùy tiện kết tội bị cáo theo điều 258, khoản 2, BLHS mà không chứng minh được hành vi xâm phạm lợi ích Nhà nước của bị cáo, cũng như tính chất nghiêm trọng của hành vi.
- Phần tranh luận của đại diện VKS không thuyết phục. Luật sư yêu cầu đối thoại sòng phẳng với đại diện VKS về các vấn đề trên, đặc biệt yêu cầu đại diện VKS chứng minh 12 bài viết, đăng của Trương Duy Nhất đã xâm phạm đến lợi ích nào của Nhà nước, qui định trong văn bản pháp luật nào, gây hậu quả ra sao? Nhưng, vị Kiểm sát viên chỉ diễn giải chung chung và cho rằng bản KLGĐ đã trình bày nên không cần nêu cụ thể. Phần tranh tụng cho thấy VKS không đưa ra được căn cứ, cơ sở để buộc tội chồng tôi. Vấn đề này, luật sư tiếp tục đề nghị VKS làm rõ, song thay vì yêu cầu VKS tranh luận với luật sư để làm sáng rõ vụ việc thì Tòa đột ngột quyết định phần tranh tụng dừng lại ở đây.
- Phần tự bào chữa của chồng tôi diễn ra đúng như cách nói hình ảnh của anh “Tòa bịt miệng luật sư và bị cáo”. Là người thực thi pháp luật nhưng chủ tọa phiên tòa lại cố tình làm sai luật. Điều 218 Bộ Luật Tố tụng hình sự qui định: “Bị cáo, người bào chữa có quyền trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên, và chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến”. Thế nhưng, khi chồng tôi bắt đầu đề cập đến sự thiếu chính xác của Bản án sơ thẩm, ngay lập tức, chủ tọa phiên tòa cắt ngang, tuyên bố kết thúc phần tranh luận, chuyển sang phần bị cáo nói lời sau cùng. Nhưng, lời sau cùng chồng tôi cũng không được nói, vừa bắt đầu đã bị chủ tọa lấy quyền điều khiển phiên tòa yêu cầu dừng lại, rồi ông ta đứng lên ôm hồ sơ đi về phòng nghị án.
Tôi thật sự bị sốc trước cách hành xử trịch thượng và thị uy của chủ tọa phiên tòa. Tôi nhìn thấy trên gương mặt nhăn nheo của mẹ chồng tôi những giọt nước mắt. Tôi hiểu nỗi niềm của bà, đó là nỗi đau đắng khi chứng kiến cảnh con trai bị oan, nhưng lại bị chính những người nhân danh luật pháp “bịt miệng” không cho giải oan. Con gái tôi khóc vì thất vọng, vì mất lòng tin. Lạc quan, tin tưởng vào sự công minh của pháp luật, hơn một năm qua, cháu sống trong hy vọng, hy vọng những người có trách nhiệm sẽ hiểu tâm huyết, tấm lòng của ba. Thế nhưng, sự thật lại quá phũ phàng.
Phần nghị án ngắn ngủi. Lại một bản án dày đặt những lời luận tội vô căn cứ, suy diễn, qui chụp kết tội chồng tôi để dẫn dắt đến kết luận: Y án. Chẳng có gì lạ. Một phiên tòa thiếu những pha tranh tụng đúng nghĩa, một phiên tòa mà người giữ quyền phán quyết cố tình không nghe luật sư và bị cáo bào chữa và tự bào chữa, một phiên tòa dựa trên những chứng lý không đủ độ tin cậy thì làm sao có được bản án thuyết phục. Một phiên tòa để lại nhiều câu hỏi Tại sao? Một phiên tòa còn nhiều điều suy ngẫm và luận bàn!
Con gái tôi lặng đi trước sự phán quyết của Tòa. Trên gương mặt non trẻ của nó hằn rõ nỗi bức xúc và tuyệt vọng. Và không kìm nén được cơn bức xúc, nó hét rõ to: “Ba tôi vô tội. Ba tôi vô tội. Chả lẽ yêu nước mà có tội à? Nói thẳng, nói thật mà có tội à?”. Không biết tiếng kêu cứu của con tôi có đủ âm vang để đánh thức lương tri những người có trách nhiệm?
Đà Nẵng ngày 27/6/2014
Cao Thị Xuân Phượng