Theo FB Anh Son Tran Nguyen
Sáng
ngày 20/6/2014, trong phiên thứ nhất của hội thảo quốc tế HOÀNG SA -
TRƯỜNG SA: SỰ THẬT LỊCH SỬ, có đại biểu Việt Nam trách Mỹ "xoay trục nửa
vời" nên Trung Quốc không sợ và tiếp tục làm càn, đem giàn khoan vào
cắm trong vùng biển VN và thắc mắc là liệu khi nào thì chính sách xoay
trục của Mỹ mới thực sự đây? Tôi ko hiểu hết ý của vị này lắm, nhưng
đoán là có ý chờ đợi động thái của Mỹ.
Vì thế, tôi đã có phát biểu, lấy ý từ nội dung một status mà tôi đã dán
lên FB của mình từ đầu tháng 4/2014. Nội dung như sau:
"Thưa quý
vị!. Tôi là người nghiên cứu lịch sử, đã tiếp cận nhiều tư liệu lịch sử
của Việt Nam, Trung Quốc và phương Tây đã chứng minh người Việt đã xác
lập và thực thi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa muộn
nhất là từ thế kỷ XVII. Tuy nhiên, chủ quyền của Việt Nam chúng tôi trên
hai quần đảo này cứ bị các nước lớn đem ra mặc cả và mua bán vì lợi ích
của họ. Sau đây là những bằng chứng:
1. Năm 1909, Nhật Bản
tuyên bố người Nhật đã khám phá ra các đảo thuộc quần đảo Pratas [Trung
Quốc gọi là Dongsha qundao (Đông Sa quần đảo)] từ tháng 8.1907 và đòi
chính quyền nhà Thanh phải thừa nhận những quyền lợi chính đáng của kiều
dân Nhật Bản đang sinh sống trên các đảo thuộc Pratas. Đổi lại Nhật Bản
sẽ không tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo này. Nhà Thanh đồng ý, trả
cho Nhật 160.000 quan tiền. Nhật Bản trích lại 30.000 quan tiền để bồi
thường cho việc phá hủy một số chùa chiền trên quần đảo này khi họ đến
chiếm đóng ở đây vào năm 1907. Lo sợ Nhật Bản sẽ áp dụng chiêu này với
quần đảo Hoàng Sa, vốn là vùng đất thuộc về vương quốc An Nam nhưng do
chính quyền An Nam bị tước đoạt quyền ngoại giao và quân sự từ sau khi
ký Hiệp ước Giáp Thân (1884) với Pháp, trong khi Pháp lại "lơ là" việc
thay mặt chính quyền An Nam thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa,
nên chính quyền Quảng Đông âm mưu chiếm đoạt Hoàng Sa. Tháng 3.1909, Phó
vương Lưỡng Quảng là Trương Nhân Tuấn cử 3 thuộc hạ ra thám sát Hoàng
Sa. Nhóm này đã thám sát 15 đảo, trở về báo cáo tình hình cho Phó vương.
Ngày 21.5.1909, Trương Nhân Tuấn cử Đô đốc Lý Chuẩn đem 3 chiến thuyền
đi thị sát Hoàng Sa lần 2. Họ đến đây cắm cờ, bắn 21 phát đại bác và
tuyên bố chủ quyền. Beauvais, Tổng Lãnh sự Pháp ở Quảng Châu đã biết
trước việc này và đã gửi một bức thư cho Bộ Ngoại giao Pháp vào ngày
4.5.1909, cho biết quần đảo Hoàng Sa có một tầm quan trọng đối với nước
Pháp vì nằm trên tuyến đường biển Sài Gòn - Hong Kong. Ông ta cũng nói
rõ: “nước Pháp có các quyền ngang với Trung Quốc đối với các đảo nói
trên và chúng ta dễ tìm ra các lập luận hỗ trợ cho các đòi hỏi của chúng
ta. Nhưng nếu việc đó không đáng thì tốt nhất là nhắm mắt làm ngơ trước
các sự việc hiện nay vì một sự can thiệp của chúng ta có thể làm phát
sinh trong lòng dân chúng một phong trào sô vanh mới có hại cho chúng ta
hơn lợi ích mà việc chiếm hữu các đảo Hoàng Sa đem lại” (Hồ sơ số 18,
ngày 10.6.1909 của Vụ Các vấn đề Chính trị và Thương mại của Bộ Ngoại
giao Pháp). Bộ Ngoại giao Pháp cho biết “Bộ tôi đã đồng ý với ý kiến của
ông Beauvais và chúng tôi đã để cho người Trung Quốc hành động” (Ghi
chú của Bộ Ngoại giao Pháp ngày 14.1.1921 về vấn đề quốc tịch của quần
đảo Đông Sa và quần đảo Hoàng Sa). Nước Pháp "bán đứng" Hoàng Sa cho
Trung Quốc lần thứ nhất. Người “đứng bán” là Bộ Ngoại giao Pháp.
2. Ngày 20.9.1920, Công ty Mitsui Bussan Kaisha của Nhật Bản gửi thư
cho đại tá hải quân Pháp Remy thuộc hải quân Sài Gòn để hỏi xem các đảo
Hoàng Sa có phải là sở hữu của Pháp hay không, và rằng công ty này muốn
khai thác quặng phốt phát trên đảo Hoàng Sa. Do không tìm thấy tư liệu
nào liên quan đến câu hỏi của công ty Nhật Bản trong kho tư liệu của hải
quân ở Sài Gòn, nên ngày 24.9.1920, đại tá Remy đã trả lời cho công ty
Nhật Bản là “quần đảo Hoàng Sa không phải sở hữu của Pháp” nhưng cho
biết đó chỉ là ý kiến cá nhân của ông ta mà thôi. Khi thông tin này được
công bố, Thống đốc Nam Kỳ đã yêu cầu Phủ Toàn quyền Đông Dương đặt vấn
đề với Bộ Hải quân ở Paris, mở một cuộc điều tra nhằm có câu trả lời
chính thức cho công ty Nhật. Tuy nhiên, khi cuộc điều tra vừa mới bắt
đầu thì ngày 8.4.1921, Tổng Lãnh sự Pháp ở Quảng Châu là Beauvais đã báo
tin cho Toàn quyền Đông Dương là vào ngày 30.3.1921, Thống đốc dân sự
tỉnh Quảng Đông đã công bố Lệnh số 831 cho biết “trong phiên họp ngày
11.3.1921, Ban Đốc chính chính quyền quân sự phương Nam đã quyết định
sáp nhập về mặt hành chính các đảo Hoàng Sa vào huyện Nhai, đảo Hải
Nam”. Cuộc điều tra bị đình chỉ và Phủ Toàn quyền Đông Dương chưa có cơ
hội trả lời cho công ty Nhật Bản về việc vương quốc An Nam đã thụ đắc
quần đảo Hoàng Sa này từ lâu đời. Thế nên, Phủ Toàn quyền Đông Dương đã
trách cứ đại tá Remy trong việc vội vàng trả lời công ty Nhật Bản, rằng:
“tuy với tính chất cá nhân cho một công ty hàng hải nước ngoài, về
những vấn đề mà chỉ riêng tính chất cũng đủ biện minh việc khước từ hay
ít nhất, những sự dè dặt thận trọng nhất, và ông ta đã làm điều đó mà
không có sự liên hệ trước với Phủ Toàn quyền”. Đồng thời, cũng trách cứ
Bộ Hải quân Pháp khi được tham khảo về một vụ tranh chấp liên quan đến
lợi ích của nước Pháp đối với quần đảo Hoàng Sa, đã tự động xử lý mà
“không cho rằng mình (Bộ Hải quân) phải báo cáo cho bộ có thẩm quyền về
ngoại giao và Bộ Thuộc địa, vì đó (quần đảo Hoàng Sa) là về một vùng đất
phụ thuộc vào một trong các thuộc địa lớn của chúng ta (tức An Nam)”
(Ghi chú của Vụ Các vấn đề Chính trị và Bản xứ, Phủ Toàn quyền Đông
Dương ngày 6.5.1921). Nước Pháp "bán đứng" Hoàng Sa cho Trung Quốc lần
thứ 2. Lần này người “đứng bán” là Bộ Hải quân Pháp.
3. Mùa hè
năm 1951, các bên tham chiến trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ II bắt
đầu hình thành bản dự thảo Hiệp ước hòa bình với Nhật Bản. Điều 2 của dự
thảo Hiệp ước này có nêu: “Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và yêu
sách đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”. Tháng 9.1951, Hội nghị
hòa bình với Nhật Bản khai mạc tại San Francisco (Hoa Kỳ), Trung Quốc
và Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan) đều không có đại diện tham dự do Hoa Kỳ
và Liên Xô không thống nhất được việc ai sẽ là đại diện của Trung Quốc
trong hội nghị này (Đài Loan hay Trung Quốc). Trong phiên họp toàn thể
vào ngày 5.9.1951, Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô là Andrei Gromyko đưa ra
13 điều khoản bổ sung cho bản dự thảo Hiệp ước hòa bình với Nhật Bản,
trong đó có điều khoản Nhật Bản "công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên
các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và các đảo khác quá về phía nam”. Hoàng
Sa (và Trường Sa) bị "bán đứng" lần thứ 3. Người “đứng bán” lần này là
Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Andrei Gromyko, Tuy nhiên, hội nghị đã bác
bỏ điều khoản bổ sung này của Liên Xô, thương vụ "bán đứng" Hoàng Sa của
Liên Xô bất thành.
4. Ngày 19.1.1974, Trung Quốc mở cuộc tấn
công tổng lực nhằm xâm lược quần đảo Hoàng Sa. Hải quân Việt Nam Cộng
hòa anh dũng chống trả nhưng do lực lượng yếu hơn nên đã để mất Hoàng Sa
vào tay Trung Quốc. Tổng thống Việt Nam Cộng hòa gửi điện khẩn đề nghị
Tổng thống Hoa Kỳ can thiệp để giúp Việt Nam Cộng hòa giành lại Hoàng Sa
nhưng Hoa Kỳ quyết định đứng ngoài cuộc xung đột. Trợ lý Bộ trưởng
Ngoại giao Mỹ là Arthur Hummel cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa biết là
Mỹ không quan tâm đến vấn đề Hoàng Sa. Hoàng Sa bị bán lần thứ 4. Lần
này người “đứng bán” là Tổng thống Hoa Kỳ R. Nixon trong một "thương vụ"
được thực hiện tại Bắc Kinh năm 1972 khi ông ta qua thăm Trung Quốc
5. Ngày 14.3.1988, Trung Quốc tấn công đảo Gạc Ma, các đá Colin và
Lendao thuộc quần đảo Trường Sa. Hải quân Việt Nam gồng mình chống đỡ.
Anh cả trong phe XHCN là Liên Xô, quốc gia đã ký Hiệp ước hữu nghị Xô -
Việt, mang tính chất của một hiệp ước đồng minh chiến lược giữa Liên Xô
và Việt Nam (ký năm 1978, thời điểm 1988 vẫn còn giá trị), có hạm đội
đóng ở Cam Ranh, rất gần Trường Sa, nhưng không hề nhúc nhích. Gần 70
chiến sĩ hải quân Việt Nam tử trận trong trận chiến này. Lần thứ 2 Liên
Xô "bán đứng" Trường Sa cho Trung Quốc.
6. Ngày 1.5.2014,
Trung Quốc kéo giàn khoan HD-981 vào hạ đặt sâu trong EEZ của Việt Nam,
cách bờ biển Việt Nam chỉ hơn 120 hải lý. Thế giới lên tiếng phản đối
nhưng "đối tác chiến lược toàn diện" của Việt Nam là Liên bang Nga (quan
hệ được nâng cấp từ năm 2012), nước đã và đang bán 4 tàu ngầm cho Việt
Nam với giá 2 tỉ USD, đã không hề phản ứng gì trước hành động hung hăng
của TQ ở trong EEZ của Việt Nam. Trong khi đó Tổng thống Liên bang Nga
là Putin sang Trung Quốc, “dung dăng dung dẻ” cùng với Chủ tịch Trung
Quốc Tập Cận Bình đi dự khai mạc tập trận chung Trung - Nga ở vùng biển
Hoa Đông, để mặc “chú em” Việt Nam là “đối tác chiến lược toàn diện” của
Nga mặc sức chống đỡ với máy bay, pháo hạm, tàu vũ trang đủ loại của
Trung Quốc.
Vậy tôi xin thưa với quý vị rằng, lợi ích từ mối
quan hệ giữa các nước lớn với TQ là rất lớn, vậy họ có dám hy sinh lợi
ích đó vì VN hay không, trong khi giữa họ và VN chưa có những cam kết
liên minh đúng nghĩa? Và xin quý vị hãy bày tỏ quan điểm về vấn đề này?.
Tôi phát biểu xong thì một học giả Nga lên tiếng nói: "Liên Xô
trước đây và Nga bây giờ chưa bao giờ "bán đứng Việt Nam" mà còn giúp vũ
khí, khí tài để VN đánh Tàu năm 1979 và bây giờ vẫn bán tàu ngầm cho
VN".
Nhưng sau đó có một học giả Ý đến gặp riêng tôi để hỏi thêm về
Hiệp ước hữu nghị Xô - Việt ký năm 1978 nhằm tìm hiểu xem việc Liên Xô
không phản ứng trước sự kiện TQ đánh chiếm Gạc Ma năm 1988 là có phù hợp
với tinh thần của Hiệp ước này ko?. Tôi đã cung cấp cho ông ấy đường
link dẫn tới Hiệp ước này. Hy vọng vài ngày nữa ông ấy sẽ có phản hồi.
Nhưng trước khi chia tay tôi ông ấy nói: "Ý kiến của anh rất đáng chú ý,
nhất là trong lúc mối quan hệ Nga - Trung đang rất nồng ấm sau hợp đồng
mua bán khí đốt vừa ký giữa ông Tập và ông Putin vừa qua". Có lẽ học
giả người Ý này đã tán đồng ý kiến của tôi.