Theo Đoan Trang
Từ khi vụ giàn khoan Haiyang 981 xảy ra (2/5/2014) đến nay, RSIS – Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam, trực thuộc ĐH Công nghệ Nanyang, Singapore – vẫn là một think-tank (viện tư tưởng) rất có ảnh hưởng đối với dư luận quốc tế quan tâm đến tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông.
Từ khi vụ giàn khoan Haiyang 981 xảy ra (2/5/2014) đến nay, RSIS – Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam, trực thuộc ĐH Công nghệ Nanyang, Singapore – vẫn là một think-tank (viện tư tưởng) rất có ảnh hưởng đối với dư luận quốc tế quan tâm đến tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông.
Sau khi RSIS đăng bài của học giả thân Trung Quốc Sam
Bateman, theo hướng “khuyên” Việt Nam chấp nhận chủ quyền của Trung Quốc trên
quần đảo Hoàng Sa và cùng hợp tác vì lợi ích chung, TS. Dương Danh Huy (từ Anh
quốc) và TS. Phạm Quang Tuấn (từ Úc) đã có bài viết phản biện. Cuộc bút chiến
giữa Sam Bateman và hai chuyên gia người Việt ở nước ngoài kéo dài từ 15/5 đến
5/6.
Ngày 9/6, một trong số rất ít học giả trong nước chuyên về
công pháp quốc tế và vấn đề Biển Đông, TS. Nguyễn Thị Lan Anh (Học viện Quan hệ
Quốc tế), đã có bài viết đăng trên RSIS, chỉ ra rằng: Trung Quốc cố ý đặt
giàn khoan dầu 981 vào vùng biển tranh chấp, tiến tới buộc Việt Nam phải cùng
đàm phán với Trung Quốc để dàn xếp một thỏa thuận tạm thời.
Ngoài ra, cũng xin bạn đọc chú ý: Trung Quốc không chỉ cần
chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, mà muốn nhiều hơn thế nhiều: Toàn bộ vùng biển
nằm trong đường 9 đoạn (đường lưỡi bò).
* * *
HOÀNG
SA 40 NĂM QUA
- Nguyễn Thị Lan Anh
Tóm
tắt
Hành động của Trung Quốc – đặt giàn khoan dầu vào vùng biển
Hoàng Sa đang bị tranh chấp – còn hơn là một sự tranh cãi về chủ quyền. Nó là sự
kháng lại luật biển quốc tế.
Bình
luận
Một tháng đã qua (bài viết đăng ngày 9/6 – ND) kể từ khi Biển
Đông, vùng gần quần đảo Hoàng Sa, lại một lần nữa xáo trộn. 40 năm về trước,
vào tháng 1/1974, Hoàng Sa là chiến trường giữa Trung Quốc và lực lượng khi đó
là quân đội miền Nam Việt Nam.
Khi giành quyền kiểm soát quần đảo từ tay miền Nam Việt
Nam, Trung Quốc đã đánh chìm một tàu hải quân Nam Việt và phá hỏng bốn tàu
khác, làm 53 lính Việt Nam chết, 16 người bị thương. Trận chiến đưa đến việc
Trung Quốc lần đầu tiên giành quyền kiểm soát hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa.
Còn
hơn cả tranh chấp chủ quyền
Yêu sách chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa
dựa vào việc triều đình nhà Nguyễn đã chiếm hữu Hoàng Sa và Trường Sa ít nhất từ
thế kỷ 17, khi các đảo này không thuộc về ai cả (vô chủ). Trong suốt thời kỳ thực
dân phương Tây, Pháp – nước bảo hộ Việt Nam – đã thực thi liên tục chủ quyền đối
với Hoàng Sa.
Sau đó, chủ quyền ấy được chuyển từ Pháp sang miền Nam Việt
Nam theo Hiệp định Geneva 1954, và sau đó được kế tục bởi Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam khi Bắc Việt và Nam Việt thống nhất vào năm 1975. Việt Nam đã tiếp
tục khẳng định yêu sách chủ quyền của mình bằng việc phản đối các hoạt động của
Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa.
Mặc dù yêu sách chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa
có cơ sở pháp lý rất mạnh, nhưng Trung Quốc vẫn khẳng định họ có chủ quyền “không
tranh cãi”. Trung Quốc không chịu thừa nhận rằng chủ quyền đối với quần đảo
Hoàng Sa hiện còn đang tranh chấp, và họ từ chối thảo luận vấn đề chủ quyền với
Việt Nam trong các cuộc đàm phán song phương. Bên cạnh đó, họ cũng không đồng ý
đưa tranh chấp chủ quyền này ra một tòa án quốc tế.
Hành động khiến cho Hoàng Sa trở thành điểm nóng mới nhất
trên Biển Đông là việc Trung Quốc đặt giàn khoan dầu Haiyang Shiyou 981 vào sâu
trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam, gần quần đảo
Hoàng Sa.
Ban đầu, tranh cãi xoay quanh giàn khoan dầu có vẻ giống
như tranh cãi về việc ai có chủ quyền đối với Hoàng Sa. Tuy nhiên, nhìn sâu hơn
vào vấn đề này, sẽ thấy đó cũng là một sự đối đầu xung quanh luật biển quốc tế.
Khoảng
cách địa lý không phải vấn đề
Đảo Tri Tôn, thuộc quần đảo Hoàng Sa, nơi Trung Quốc đặt
giàn khoan dầu nước sâu Haiyang Shiyou 981, là một đảo san hô và cát rộng 1,6
km2, không thích hợp cho con người ở cũng như không thể tự nó có đời sống kinh
tế. Do đó, theo Công ước về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, nó là “đá” và không thể
được hưởng nhiều hơn lãnh hải 12 hải lý. (Xem Chú thích). Ngay cả khi một số đảo thuộc Hoàng Sa,
trên nguyên tắc, được hưởng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa đi chăng nữa,
thì giàn khoan vẫn đang nằm trên “vùng biển tranh chấp”, vì hai lý do sau.
Thứ nhất, bởi vì cả Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố
chủ quyền đối với Hoàng Sa, cho nên bất kỳ vùng đặc quyền kinh tế nào phát sinh
từ Hoàng Sa cũng là khu vực tranh chấp.
Thứ hai, giàn khoan được đặt trong một khu vực có những
yêu sách chồng lấn, bởi lẽ nó nằm trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của
Việt Nam tính từ đất liền, cũng như nằm trong vùng đặc quyền kinh tế mà Trung
Quốc nhận là của họ, tính từ quần đảo Hoàng Sa.
Khu vực đặt giàn khoan sẽ vẫn là khu vực tranh chấp cho tới
khi nào Trung Quốc và Việt Nam nhất trí được với nhau về cách phân định biên giới
trên biển ở nơi này. Theo thông lệ của các nước trong việc phân định biên giới
trên biển, đảo Tri Tôn và các đảo khác thuộc Hoàng Sa chỉ được hưởng “hiệu lực
thấp” khi xác định ranh giới hàng hải, bởi vì đường bờ biển của những hòn đảo
nhỏ như vậy ngắn hơn nhiều so với đường bờ biển của Việt Nam. (Xem Chú thích).
Trung Quốc và Việt Nam từng làm theo thông lệ này khi đàm
phán biên giới trên biển. Khi xác định biên giới biển của họ trên vùng cực bắc
của Vịnh Bắc Bộ, hai nhà nước đã nhất trí chỉ cho Bạch Long Vĩ – một hòn đảo của
Việt Nam nằm trong Vịnh Bắc Bộ – 25% hiệu lực. Điều này đã được áp dụng mặc dù
Bạch Long Vĩ có diện tích 2,33 km2 và có dân định cư trên đảo.
Dù thế nào đi chăng nữa, do trong khu vực tranh chấp hiện
nay không có thỏa thuận nào về biên giới biển, nên quan điểm cho rằng giàn
khoan nằm gần Hoàng Sa hơn gần bờ biển Việt Nam là quan điểm sai. Giàn khoan
đang được đặt trong vùng biển tranh chấp, nơi Trung Quốc không thể thực thi độc
quyền nào.
Đường 9-đoạn của TQ rất khó vẽ vì nó... không có tọa độ.
(Nguồn: RFA)
Hành
động triển khai giàn khoan của Trung Quốc đã vi phạm DOC
Thật ra căn cứ để Trung Quốc đòi sở hữu nguồn tài nguyên
thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam không phải là chuyện họ
tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế cho quần đảo Hoàng Sa, mà (căn cứ đó) là những
yêu sách của Trung Quốc, đòi quyền lợi và quyền tài phán đối với toàn bộ tài
nguyên trong một vùng biển rộng, được bao quanh bởi đường 9 đoạn mà Trung Quốc
đã vạch ra trên bản đồ Biển Đông của họ. (Ảnh trên)
Mặc dù không đưa ra một tài liệu chính thức nào biện hộ
cho yêu sách hoặc cơ sở pháp lý của mình theo luật quốc tế, nhưng Trung Quốc vẫn
dùng bản đồ đường 9 đoạn để tuyên bố quyền sở hữu đối với tất cả tài nguyên của
khu vực biển nằm nằm trong đường 9 đoạn, ngay cả khi khu vực biển ấy thuộc vùng
đặc quyền kinh tế của các nước khác.
Trung Quốc dùng bản đồ đường 9 đoạn làm căn cứ đòi chủ
quyền, bởi vì khu vực biển có tiềm năng dầu khí lớn ngoài khơi Việt Nam hoàn
toàn không nằm trong vùng biển mà Trung Quốc có thể tuyên bố chủ quyền theo công pháp
quốc tế về luật biển. Do đó, Trung Quốc quyết định phớt lờ luật biển quốc tế,
và khẳng định chủ quyền của họ dựa vào bản đồ đường 9 đoạn, chiếm tới 85% diện
tích Biển Đông.
Đối với Trung Quốc, điều rất quan trọng là phải đặt được
giàn khoan vào vùng biển đang tranh chấp. Theo luật biển, chừng nào Trung Quốc
và Việt Nam chưa đạt được một thỏa thuận về phân định ranh giới trên biển, thì
chừng đó hai nhà nước vẫn có nghĩa vụ pháp lý là phải nỗ lực để xác lập những
dàn xếp tạm thời, có tính thực tiễn (Điều 74 UNCLOS – ND). Luật biển quốc tế
cũng buộc Trung Quốc và Việt Nam không được có các hoạt động đơn phương có thể
gây hại hoặc cản trở việc đàm phán về một hiệp định biên giới cuối cùng.
Các tòa án quốc tế đã từng có phán quyết rằng, trong khu
vực có nhiều yêu sách hàng hải chồng lấn, sẽ là bất hợp pháp nếu một nước tìm
cách thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên, bởi vì hành động đơn phương như
vậy sẽ làm thay đổi vĩnh viễn hiện trạng khu vực, và do đó, gây hại hoặc cản trở
việc đàm phán về một hiệp định biên giới chung cuộc.
Khi thảo luận với ASEAN về Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển
Đông (COC), vốn có tính ràng buộc pháp lý, Trung Quốc đã liên tục nói rằng phải
thực thi đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố năm 1992 về Cách Ứng xử của các bên trên
Biển Đông (DOC). Tuy nhiên, việc Trung Quốc đơn phương triển khai giàn khoan là
sự vi phạm rõ ràng các điều khoản của DOC – văn kiện quy định rằng các bên liên
quan phải tự kiềm chế, không tiến hành những hoạt động gây phức tạp tình hình
hoặc làm tranh chấp leo thang.
Hy vọng Trung Quốc sẽ sớm hiểu ra rằng, bắt nạt các nước
láng giềng, vi phạm luật quốc tế, không phải là cách hành xử của một siêu cường
có trách nhiệm trên trường quốc tế.