(Báo cáo trước Ủy Ban VH-GD Quốc
Hội ngày 22 tháng 7 năm 2017)
Phạm Toàn
Mở đầu
Năm 2009, nhóm
Cánh Buồm ra đời.
Cánh Buồm tập hợp
một số nhà hoạt động Giáo dục đã có tuổi và trẻ tuổi với mục
tiêu khởi sự những công việc cụ thể nhằm gợi ý
cho những việc làm hướng tới thay đổi nền Giáo dục quốc dân Việt Nam.
Tư tưởng nhất quán của
nhóm là tìm cách chuyển một nền Giáo dục vốn tập
trung vào việc dạy họcsang một nền Giáo dục tập trung vào tổ
chức việc học. Nhóm Cánh Buồm gọi tên đó là một nền Giáo dục Việt
Nam hiện đại hóa.
Gọi đó là hiện
đại hóa vì phải vừa làm vừa thử nghiệm – lý thuyết
và thực tiễn cùng dắt tay nhau nhau tiệm cận với cái đúng –
hoặc cái Chân lý của Việt Nam ở nơi đây và vào lúc này, chứ
không là cái “Đúng” mơ hồ nhặt nhạnh từ nơi xa lạ.
Nhóm Cánh Buồm
chấp nhận thách thức tạo ra những sản phẩm cụ thể (chương trình học và sách giáo khoa bậc phổ thông) là những giải
pháp kỹ thuật được chưng cất từ thực tiễn Giáo dục Việt Nam nhiều
chục năm nay, ít nhất là từ năm 1978 với hệ thống Giáo dục thực nghiệm do giáo
sư Hồ Ngọc Đại khởi xướng.
Báo cáo này có
các phần sau:
(a) Những sản phẩm
của nhóm Cánh Buồm;
(b) Lý giải về
các sản phẩm của nhóm Cánh Buồm;
(c) Dự phóng tương lai của công
trình.
I./ Những sản phẩm
của nhóm Cánh Buồm (từ 2009 đến 2017)
1. Tủ sách giáo
khoa Cánh Buồm, gồm có
a. Sách Tiếng
Việt bậc Tiểu học, 5 cuốn cho 5 lớp;
b. Sách Văn bậc
Tiểu học, 5 cuốn cho 5 lớp;
c. Sách Tiếng
Việt bậc Trung học cơ sở, 4 cuốn cho 4 lớp;
d. Sách Văn bậc
Trung học cơ sở, 4 cuốn cho 4 lớp;
e. Sách Lối
sống bậc Tiểu học, 4 cuốn; (đang sửa chữa, bổ sung cho đủ 5 lớp);
f. Sách Tiếng
Anh Tiểu học, 2 cuốn; (đang sửa chữa, bổ sung cho đủ 5 lớp);
g. Sách Khoa
học Tiểu học, 1 cuốn; (đang sửa chữa, bổ sung cho đủ 5 lớp).
2. Sách huấn luyện
sư phạm vắn tắt về:
a. Giáo
dục hiện đại;
b. Cách
dùng sách Tiếng Việt;
c. Cách
dùng sách Văn.
Ba cuốn cẩm nang
này mới phục vụ cho bậc Tiểu học, nhóm đang biên soạn cẩm nang sư phạm cho bậc
Trung học cơ sở.
3. Tủ sách Tâm
lý học Giáo dục với 4 bản dịch:
a. Jean
Piaget, Sự ra đời trí khôn ở trẻ em;
b. Jean
Piaget, Sự hình thành biểu tượng ở trẻ em;
c. Jean
Piaget, Sự xây dựng cái thực ở trẻ em;
d. Howard
Gardner, Cơ cấu trí khôn.
4. Đặc biệt,
nhóm Cánh Buồm có cuốn Một nền Giáo dục Việt Nam hiện đại – Kỷ yếu Hội
thảo Tự Học-Tự Giáo Dục năm 2011. Đây là tài liệu huấn luyện nội bộ
nhóm Cánh Buồm từ khi mới thành lập. Nó cũng được dùng để báo cáo tại Ban Tuyên
giáo TƯ ĐCS VN tháng 3
năm 2010. Trong tập sách này còn có ý kiến
phản biện của vài giáo sư danh tiếng.
5. Nhóm Cánh Buồm
còn tổ chức đưa các loại sách lên trang mạng Canhbuom.edu.vn có
nhiều chục nghìn người truy cập, do đó cũng cần đến các cuộc Hội thảo nhằm hướng dẫn người
dùng sách. Ngoài 2 cuộc Hội thảo tổ chức ở Viện IDECAF thành phố Hồ Chí Minh, còn có những cuộc hội thảo lớn tổ chức tại Trung tâm
Văn hóa Pháp tại Hà Nội như:
a. Hội thảo Hiểu
trẻ em – Dạy trẻ em (2009);
b. Hội thảo Chào
lớp Một (2010);
c. Hội thảo Một
Cánh Buồm – Một nhà trường Hiện đại (2011);
d. Hội thảo Tự
học – Tự giáo dục (2011);
e. Hội thảo Em
biết cách học (2012);
f. Hội thảo Cánh
Buồm no gió – Thời đại Internet (2013);
g. Hội thảo Cao
hơn, xa hơn… và dễ tự
học (2014);
h. Hội thảo Chào
Lớp 6 (2015);
i. Hội thảo giới
thiệu sách Tâm lý học trẻ em (2015);
j. Hội thảo Hành
trình trí tuệ (2016);
Nhóm Cánh Buồm
đã thực hiện những đầu việc trên trong gần mười năm tồn tại của mình.
Cũng trong quá
trình hoạt động đó, nhóm Cánh Buồm chưa bao giờ chi tiêu một xu nhỏ từ công quỹ.
Nhóm Cánh Buồm
có một điều sau để lý giải về sự phát triển công việc của mình. Có một nguyên
nhân căn bản tạo thành những lý lẽ cốt lõi giúp nhóm Cánh Buồm mang một sức hấp
dẫn cần thiết phải được lý giải.
Điều mới mẻ tạo nên lực hấp
dẫn của những sản phẩm Cánh Buồm là gì?
II./ Lý giải ngắn
về những lý lẽ cốt lõi của nhóm Cánh Buồm
Nhà giáo Phạm Toàn (bên trái) |
Đây là một hiện
thực đối với sản phẩm của nhóm Cánh Buồm. Sự hấp dẫn của các sản phẩm Cánh Buồm
rất dễ cảm nhận ở những nơi chúng được dùng thử: học sinh thích học, có nhiều học
sinh học giỏi, giáo viên dễ dạy, phụ huynh dễ theo dõi sự tiến bộ của con em.
Nhóm Cánh Buồm cảm
nhận được một đôi điều qua việc mình làm, có thể được gợi ý ra như sau.
1./ Định
hướng – Thoạt kỳ thủy, nhóm Cánh Buồm chỉ có một định hướng: tìm
ra những giải pháp để thực hiện một nền Giáo dục phổ thông tập trung
vào tổ chức việc học của con em. Mọi hoạt động của nhóm đều tập trung
vào thực thi định hướng đó.
2./ Nền
tảng – Nền tảng của Giáo dục quốc dân là bậc Giáo dục phổ thông (GDPT)
để bậc Giáo dục Đại học (GDĐH) xây dựng trên nền tảng đó. GDPT thì phải đồng
chất trong khi GDĐH chỉ cần tự chủ. Sức quản
lý của Nhà nước cũng chỉ có thể
là nắm chắc GDPT trong khi có thể và hoàn toàn thả
nổi GDĐH.
3./ Sứ mệnh
– Do đó, cần định nghĩa lại về GDPT: đó là một công cuộc tổ
chức sự trưởng thành của thanh thiếu niên toàn dân tộc. Trong sứ mệnh này
đã hàm chứa việc tôn trọng người học ngay trong
khi tổ chức nhào nặn học sinh có sự đồng hành của học
sinh từ bé đến khi ra trường. Suy ra: không thể và không bao giờ cho học sinh
phổ thông du học (kể cả du học ở những “trường quốc tế”), trong khi học sinh đại
học có thể tùy nghi theo học trong nước hoặc ngoài nước.
4./ Trưởng thành – Học sinh phổ thông
trưởng thành thể hiện ở năng lực tự học chứ không thể
hiện ở kết quả của những kỳ thi tốn tiền và tốn sức. Hoàn toàn có thể bỏ tất cả
các kỳ thi – trừ việc “thi” nhập học do các trường Đại học tự tổ chức theo hình thức thích hợp với từng trường. Với học sinh phổ thông, cần
tổ chức chặt chẽ sự trưởng thành về kiến thức và tư duy theo
chương trình, bậc học và sách giáo khoa.
5./ Chương trình – Một
chương trình học ở bậc GDPT không phải là sự xếp sắp các tiết học
vô hồn. Một chương trình học phải là một lý tưởng đào tạo. Trong giai đoạn hiện
nay, lý tưởng đào tạo nên là những chàng
trai và cô gái biết tự học – thích tự lập – đủ sức tự vào đòi. Ở
Mỹ, có bang cảm thấy chương trình lõi của liên bang (common core) thấp
tầm, khi đó họ có thể có chương trình riêng mang lý tưởng được họ coi là đúng hơn hoặc
cao hơn và thích hợp hơn. Ở Việt Nam, nhóm Cánh Buồm muốn thêm một chi tiết: một
chương trình học được thiết kế đúng sẽ dẫn tới việc
bỏ thi cử.
6./ Bậc
học – Việc thiết kế đúng chương trình học bắt đầu từ việc nhận thức
đúng nhiệm vụ mỗi bậc học. Theo đó, bậc Tiểu học có nhiệm vụ
chiếm lĩnh phương pháp học, bậc Trung học cơ sở có nhiệm vụ
dùng phương pháp để tự chiếm
lĩnh kiến thức cơ bản cần cho việc vào đời theo một
trong ba hướng: lao động mà sống, học trường nghề, và học lên bậc hướng
nghiệp bậc cao – bậc học hiện đang là Trung học phổ thông nên trở
thành bậc Dự bị đại học của từng trường đại học – công việc thay đổi tý chút đó sẽ tiết kiệm năng lượng, đồng thời chất lượng
cũg sẽ được nâng cao bất ngờ.
7./ Sách
giáo khoa – Cuối cùng “trăm dâu đổ đầu tằm” và con tằm trong Giáo dục
chính là sách giáo khoa. Sách giáo khoa (SGK) là bước cuối cùng kỹ thuật
hóa toàn bộ những đòi
hỏi mang tính lý lẽ cốt lõi. Mục này xứng đáng được nói sao cho bớt vắn tắt hơn.
7.a. Nhiệm
vụ SGK
a. Sách giáo
khoa phải thể hiện lý tưởng đào tạo sự trưởng thành của học sinh cả về kiến thức, tư
duy, kỹ năng.
b. Sách giáo
khoa phải dắt dẫn con đường tự tìm tòi của người học để tự mình trưởng thành cả về kiến thức, cách tìm đến kiến thức, cách vận dụng kiến thức.
c. Sách giáo
khoa phải hấp dẫn giáo viên bằng cách giúp giáo viên đồng hànhvới người học – đồng hành với
tư cách người hướng dẫn học sinh và cả trong việc tự nâng cao chính mình.
7.b. Nội
dung SGK
a. Phải thể hiện
rõ nhiệm vụ môn học. Dựa theo các sách giáo khoa đã có, nhóm
Cánh Buồm, xác định như sau:
· Môn Tiếng
Việt có nhiệm vụ giúp người học am tường và hành dụng tiếng mẹ đẻ trên cơ sở
ngôn ngữ học.
· Môn Văn có
nhiệm vụ giúp người học thông qua vật liệu văn chương để đến với ngôn ngữ nghệ
thuật nói chung.
· Môn Lối
sống có nhiệm vụ giúp người học có ý
thức và có nền nếp sống đồng thuận trong xã hội, bắt đầu từ nhà trường, rồi đến các cộng
đồng khác nhau: gia đình, tổ quốc, nhân loại.
· Môn Khoa
học có nhiệm vụ giúp người học quen với tác phong thực nghiệm để có tư duy thực
chứng trước các hiện tượng tự nhiên và xã
hội.
· Môn Ngoại
ngữ (Tiếng Anh) có nhiệm vụ giúp người học làm ra và sở hữu một công
cụ tiếng nước ngoài để có thể phiêu lưu vào một nền văn hóa xa lạ theo mục đích
sống của mình.
b. Phải thể hiện
rõ nhiệm vụ bậc học. Nội dung này thể hiện rõ ở chủ
đề của từng năm học tiểu học, nhưng lên bậc THCS thì học theo từng vấn
đề để chuẩn bị cho học sinh vào đời.
· Môn Tiếng
Việt Tiểu học: Lớp 1 Ngữ âm học tiếng Việt; Lớp 2 Từ
vựng học tiếng Việt; Lớp 3 Cú pháp và logic câu tiếng Việt; Lớp
4 Văn bản tiếng Việt; Lớp 5 Hành dụng tiếng Việt (các
cách biểu đạt khoa học, nghệ thuật và xã hội bằng Tiếng Việt).
· Môn Tiếng
Việt Trung học cơ sở: Lớp 6 Tiếng nói và chữ viết tiếng Việt;
Lớp 7 Từ vựng tiếng Việt; Lớp 8 Các cách biểu đạt tiếng Việt;
Lớp 9 Ngôn ngữ và tư duy trong các cách biểu đạt tiếng Việt.
· Môn Văn Tiểu
học: Lớp 1 Đồng cảm; Lớp 2 Tưởng tượng; Lớp 3 Liên
tưởng; Lớp 4 Bố
cục tác phẩm; Lớp 5 Các dạng hoạt động nghệ thuật trong đời sống.
· Môn Văn Trung
học cơ sở: Lớp 6 Cảm hứng nghệ thuật – vì sao làm ra tác phẩm nghệ thuật;
Lớp 7 Giải mã trữ tình và kịch; Lớp 8 Giải mã tự sự; Lớp
9 Truyện Kiều của Nguyễn Du, Faust của
Goethe.
c. Phải thể hiện
rõ việc làm và thao tác học. Cơ sở của việc xác định các việc
làm và thao tác học sẽ dẫn tới việc giáo viên không giảng giải tùy
tiện mà thay vào đó là giáo viên tổ chức việc làm với
các thao tác xác định để người học tự tìm đến tri thức. Đó không chỉ là cụ thể hóa khẩu hiệu
“Làm mà học” (Learning by Doing) mà còn là con đường đưa học sinh đến với tư
duy một cách tự nhiên: tư duy khoa học, tư duy nghệ thuật, và tư duy xã hội-chính trị.
Làm lại những
thao tác chắt lọc của người đi trước thể hiện rất rõ ở ba môn Nghệ thuật, Khoa học và Lối
sống:
· Môn Văn:
chỉ có thể qua việc làm lại các hành động và thao tác chắt lọc của người đi trước (người
nghệ sĩ nhà văn, nhà thơ…) thì học sinh mới
được tự mình làm ra cái Đẹp nghệ thuật để thay vào cung
cách “giảng văn” ép học sinh phải cảm nhận nghệ thuật giỏi lắm là đạt ngang tầm
người giảng giải. Các thao tác đó được nằm trong chủ đề của từng cuốn sách giáo
khoa như đã trình bày bên trên.
· Môn Khoa
học: học sinh được làm lại những thao tác phổ quát của nhà khoa học từ thượng cổ cho tới
nay. Đó là thao tác quan sát, tự đặt ra hoặc cùng nhau đặt
ra những câu hỏi dẫn tới những giả thuyết (hoặc
giả thiết) nghiên cứu, dẫn tới công việc thực nghiệm để tự mình đi tới những kết luận khoa học. Tư
duy khoa học sẽ hình thành từ những hành động đó chứ không hình thành qua nghe
giảng – cũng không qua những “cải tiến” mang danh hiện đại như xem phim tư liệu
chẳng hạn.
· Môn Lối
sống thay thế môn Đạo đức với những lời khuyên luôn
luôn đúng nhưng bao giờ cũng khó kiểm soát. Môn Lối sống tổ chức
cho trẻ em bắt đầu từ việc tổ chức lối sống tự lập để xác định
vai trò và trách nhiệm cá nhân của mình ngay từ Lớp 1. Trách nhiệm đó sẽ tiếp nối
trong cách tổ chức cuộc sống cộng đồng, từ cộng đồng nhỏ tới lớn. Cách học này
sẽ thay thế những “lớp học” gọi tên là “Năng lực sống” lẻ tẻ, vụn vặt (cách tặng
hoa, cách lên cầu thang gác, … thậm chí cách tạo lòng dũng cảm bằng cách bước lên thủy tinh vụn
(!), thiếu hẳn một tầm tư tưởng của con người hiện đại.
III./ Dự phóng tương lai công trình của nhóm Cánh Buồm
Từ khi nhóm Cánh
Buồm ra đời, chúng tôi luôn luôn có ý thức tìm đến sự chỉ đạo của tổ chức, vừa
để tránh sai sót, vừa để tạo điều kiện thực thi trách nhiệm phục vụ công cuộc
chấn hưng nền giáo dục quốc dân.
a. Rất may mắn,
sau khi ra đời cuối năm 2009, thì ngay từ tháng 3 năm 2010, nhóm Cánh Buồm đã
có vinh dự báo cáo đề án Giáo dục Hiện đại hóa của nhóm tại Ban Tuyên giáo
Trung ương Đảng CSVN; người
chủ trì là ông Phó ban thường trực Vũ Ngọc Hoàng. Chúng
tôi rất vinh dự mở đầu cho một loạt báo cáo sau đó của giáo sư Hồ Ngọc Đại,
giáo sư Lê Ngọc Trà, giáo sư Nghiêm Đình
Vì, và kết thúc bằng cuộc báo cáo của giáo sư Hoàng Tụy. Tại cuộc họp này khi
kết thúc ông Vũ Ngọc Hoàng đã cảm nhận rằng
đường lối và cách làm của nhóm Cánh Buồm vừa thiết thực vừa giữ được đoàn kết.
Cũng chính tại
trụ sở Ban Tuyên giáo TƯ, vào năm 2013, tại cuộc họp chuẩn bị cho Cánh Buồm vào Hội An thực nghiệm
ở ba trường tiểu học, ông Vũ ngọc Hoàng đã
đánh giá nhóm Cánh Buồm là “nhóm lao động cộng sản chủ nghĩa”. Tiếc rằng sau đó
công việc thực nghiệm ở Hội An đã không được tiến hành. Nhưng nguyên nhân không hề thuộc về
sai sót hoặc khuyết điểm của nhóm Cánh Buồm.
b. Ngày 3 tháng
2 năm 2012, theo gợi ý sát sao của Bà nguyên phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, nhóm Cánh Buồm được mời báo cáo về bộ sách giáo
khoa đã công bố và đề án Giáo dục của Nhóm Cánh Buồm tại Vụ Giáo dục Tiểu học Bộ
Giáo dục và Đào tạo. Người chủ trì buổi đó là ông Vụ trưởng Lê Tiến Thành
cùng hai Vụ phó Trần Thị Thắm và Phạm Ngọc Định. Rất tiếc, công việc không được
tiếp nối, ngoài sự mong đợi của nhóm Cánh Buồm.
c. Năm 2014, cũng
tại Ủy Ban Văn hóa Giáo dục Thanh thiếu niên và Nhi đồng của của Quốc Hội, nhóm
Cánh Buồm cũng đã có vinh dự báo cáo toàn bộ công việc của mình. Bản báo cáo viết
đã được gửi lại Ủy Ban.
Một kiến nghị của
Cánh Buồm
Nhóm Cánh Buồm
trân trọng cảm ơn sự quan tâm của Ủy
Ban Văn hóa Giáo dục Thanh thiếu niên và Nhi đồng của Quốc Hội, đồng thời kiến
nghị Ủy ban giúp đỡ sao cho Bộ Giáo dục và đào tạo chấp nhận chương trình và sách của Nhóm được thực hiện tại một có sở giáo
dục với điều kiện hội đồng giáo dục và phụ huynh chấp nhận thực thi các sản phẩm
giáo khoa của nhóm Cánh Buồm.
TM Nhóm Cánh Buồm
Phạm Toàn