Khi chính quyền Campuchia móc ngoặc với doanh nghiệp Việt Nam, người dân bản xứ lâm vào cảnh khốn cùng.
By LEE NGUYEN
Khwas Blov (trái) và Sol Preng (phải), hai người Campuchia mất đất vào tay một công ty Việt Nam. Ảnh: Savann Oeurm/Oxfam America. |
Campuchia đang trong tầm ngắm của các chiến dịch trưng dụng đất và vơ vét tài nguyên, được các doanh nghiệp Việt Nam góp phần thúc đẩy. Việc chính phủ Campuchia cấp đất cho các nhà đầu tư của Việt Nam đã gây ra một cảm giác bất an và căm hận người Việt sâu sắc trong xã hội nước này. Dân làng không những phải vật lộn với cái nghèo mà còn đụng độ bạo lực với những doanh nghiệp Việt Nam. Tình trạng trên thường xuyên xảy ra ở các tỉnh phía Đông Bắc Campuchia, nơi sinh kế của người dân thường xuyên bị các công ty Việt Nam đe dọa.
Hai bài viết tác giả sẽ giới thiệu sau đây dựa trên dữ liệu và báo cáo điều tra của các tổ chức quốc tế Global Witness (Anh), Environmental Investigation Agency (Anh), World Bank; các tổ chức phi chính phủ Campuchia LICADHO, Adhoc Cambodia, Sahmakum Teang Tnaut; các tờ báo của Campuchia Cambodia Daily, Phnompenh Post; và các nguồn uy tín khác.
Tác giả sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa thực dân mới” (neo-colonialism) dựa trên các định nghĩa của học giả Kwame Nkrumah, cũng như định nghĩa của học giả Sandra Halperin trên từ điển Britannica. Theo đó, chủ nghĩa thực dân mới là việc một quốc gia kiểm soát và bóc lột một quốc gia kém phát triển hơn dựa trên những công cụ gián tiếp như đầu tư, viện trợ, cho vay… Một ví dụ thường được dẫn chiếu, mặc dù gây tranh cãi, là sự bành trướng ảnh hưởng của Trung Quốc ở châu Phi. Tác giả hiểu rằng việc gọi ảnh hưởng của Việt Nam ở Campuchia là “chủ nghĩa thực dân mới” cũng sẽ gây ra những tranh cãi tương tự.
Tính đến tháng 03/2020, chính phủ Campuchia đã cho thuê 2,16 triệu ha đất cho các dự án nông nghiệp, tương đương hơn một nửa diện tích đất có thể canh tác. Từ năm 2000 đến nay, nạn cướp đất đã gây cảnh mất đất, mất nhà cho hơn 500.000 dân oan ở 12 tỉnh Campuchia. Các cuộc biểu tình chống cướp đất đã tăng lên nhanh chóng; năm 2012, số người bị chính phủ bắt giữ nhiều hơn gần gấp đôi so với năm trước.
Đi kèm với thu hồi đất là các vụ cưỡng chế bạo lực, trục xuất người dân khỏi nơi ở của họ. Chỉ riêng ở Phnom Penh, các tổ chức phi chính phủ báo cáo rằng gần 30.000 gia đình đã bị trục xuất khỏi nơi ở của họ trong vòng 25 năm qua.
Trong một báo cáo tháng 07/2015, các nhóm nhân quyền địa phương cho biết, trong sáu tháng đầu năm, họ đã nhận được 66 khiếu nại về vi phạm quyền sở hữu đất ảnh hưởng đến hơn 3.500 hộ gia đình và hơn 8.600 ha đất.
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam năm 2015, Việt Nam đã đầu tư vào Lào và Campuchia 430 dự án FDI, tương đương 46% tổng số dự án mà Việt Nam đầu tư trên toàn thế giới, với vốn đầu tư hơn 7 tỷ USD trong các ngành khai thác khoáng sản, nông – lâm nghiệp.
Khác với các quốc gia khác, đầu tư của Việt Nam chủ yếu nhắm vào tài nguyên đất, rừng và các loại tài nguyên thiên nhiên khác của hai quốc gia này. Những dự án đầu tư này gây ra các vi phạm nhân quyền nghiêm trọng; đe dọa sinh kế của người bản địa; và vi phạm nghiêm trọng đến các tiêu chuẩn pháp lý, xã hội và môi trường cơ bản nhất.
Bản đồ những khu đất mà chính phủ Campuchia đã cho các doanh nghiệp thuê, màu xanh lá cây là doanh nghiệp Việt Nam. Ảnh: LICADHO. |
Cuộc sống của người dân và cộng đồng dân tộc bản địa thường xuyên bị đe dọa. Các doanh nghiệp Việt Nam thường xuyên hủy hoại môi trường và công khai vi phạm pháp luật Campuchia. Đụng độ bạo lực, đàn áp, bắt bớ và đổ máu đã nổ ra, những giọt nước mắt của người Campuchia đã rơi trên quê hương họ. Tình trạng trên góp phần tạo ra tâm lý “bài youn” trong xã hội Campuchia.
Tiếp tay bán đất
Các quan chức chính phủ ở Campuchia đã cấp nhượng đất đai trái với luật pháp của chính họ, giúp cho các công ty Việt Nam đàn áp chính người dân của họ, và đã không hành động khi các doanh nghiệp Việt Nam công khai vi phạm luật pháp Campuchia.
Có rất ít thông tin liên quan đến nhượng đất kinh tế ở Campuchia. Chính phủ không công khai bản đồ địa chính, không có thông tin về các khu vực mà chính phủ sắp cho thuê, không tiết lộ khi nào các công ty bắt đầu đàm phán thuê đất và không có thông tin về các doanh nghiệp sở hữu đất.
Các bản đánh giá tác động môi trường và xã hội cũng không được chính quyền địa phương công bố cho những cộng đồng bị ảnh hưởng. Kết quả là, trong phần lớn các trường hợp, các cộng đồng địa phương chỉ biết vùng đất của tổ tiên đã bị chuyển giao cho các doanh nghiệp Việt Nam khi “sự đã rồi”.
Theo tổ chức Global Witness, các điều khoản bảo mật cũng là một yếu tố quan trọng cho phép những gã khổng lồ như HAGL và VRG che giấu diện tích đất mà họ đang nắm giữ qua hệ thống các công ty con. Điều này rõ ràng cho phép họ nắm giữ một diện tích đất đai vượt quá ngưỡng pháp lý của luật pháp Campuchia, lần lượt là gấp 5 và 16 lần.
Khi người dân bị doanh nghiệp chiếm đất và rừng, một trong những rào cản quan trọng nhất đối với các khiếu nại đòi đất, hoặc đòi bồi thường, là thiếu quyền tiếp cận thông tin: doanh nghiệp, dự án nào đã chiếm đất của họ; ranh giới, diện tích của dự án là bao nhiêu; đất thu hồi được sử dụng để làm gì; và những tác động môi trường hoặc xã hội từ dự án sẽ ra sao.
Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Campuchia (Cambodian Ministry of Agriculture, Forestry and Fisheries) có cơ sở dữ liệu trực tuyến về các khu đất nhượng; tuy nhiên, cơ sở dữ liệu này không đầy đủ, hiếm khi được cập nhật và chỉ chứa thông tin cơ bản nhất. Cơ sở dữ liệu này cũng không thể truy cập được ở những vùng không có điện, máy tính và Internet.
Việc giữ bí mật các thông tin này không chỉ để ngăn chặn người dân phản kháng mà còn để bảo vệ quyền lợi của các công ty, sâu xa hơn là của các quan chức chính phủ quyền lực và các “đàn em kinh tài” của họ. Việc giới tinh hoa móc nối với các doanh nghiệp Việt Nam để chiếm đoạt tài sản quốc dân đã trở thành “chuyện thường ngày” ở Campuchia.
HAGL – trường hợp một công ty tư nhân Việt Nam lũng đoạn đất đai ở Campuchia
HAGL có quan hệ thân cận với giới tinh hoa thuộc Đảng Nhân dân Campuchia (CPP), những người đã cai trị đất nước liên tục trong hơn ba mươi năm. Được sự hậu thuẫn của chính phủ Hun Sen, các vụ thâu tóm đất đai của HAGL được thực hiện qua mạng lưới các công ty con để che giấu danh tính thật của chủ sở hữu. Tập đoàn này và các công ty con của nó (Hoang Anh Oyadav, Heng Brother, CRD) đã thực hiện các vụ chiếm đất từ năm 2009 mà không cần phải đền bù cho chủ đất.
HAGL chiếm đất và chặt phá các khu rừng của người bản địa ở Campuchia. Ảnh: Equitable Cambodia. |
Ở Campuchia, các dự án đầu tư đất nông nghiệp đáng kể của HAGL đều nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Ratanakiri, vùng đất giáp ranh với tỉnh Gia Lai của Việt Nam. Tính đến tháng 03/2020, HAGL nắm giữ 54.191 ha đất ở tỉnh Ratanakiri, theo dữ liệu của LICADHO, một tổ chức nhân quyền của Campuchia. Phần đất này tương đương 5% tổng diện tích của tỉnh Ratanakiri và gấp năm lần giới hạn pháp lý mà pháp luật Campuchia cho phép (ở Campuchia, một doanh nghiệp chỉ được nắm giữ tối đa 10.000 ha).
Năm 2009, dân làng ở 14 vùng nông thôn đã bất ngờ bị HAGL chiếm đất khi lực lượng máy kéo và xe ủi đất (được dân quân và binh sĩ Campuchia bảo vệ) ập đến chặt phá. Sau vụ này, HAGL thu về 18.952 ha để trồng cao su.
Đốt phá rừng để lấy đất trồng cao su do một công ty con của HAGL tiến hành. Ảnh: Global Witness. |
Mười bốn ngôi làng, ngay cả những làng ngay sát nơi xảy ra vụ việc là Jarai, Kachoh’, Tampuan, Lao, và Kreung đều không được chính phủ và công ty thông báo trước. Sau vụ việc, các cuộc họp với nội dung mơ hồ được tổ chức. Dân làng được kể về một dự án nông nghiệp hiện đại theo định hướng phát triển quốc gia, còn chủ quyền của họ trong vùng đất của tổ tiên để lại thì đã bị lấy đi.
Hàng trăm hộ gia đình đã bị mất đi sinh kế, bao gồm lâm sản, nguồn nước, đất trồng hoa, ruộng lúa, gia súc và hoa màu. Để thu hồi đất, HAGL tìm cách đe dọa, dùng vũ lực, cưỡng chế và trục xuất dân làng khỏi những cánh đồng và cho máy xúc phá hủy nhà cửa của họ.
Các gia đình bị chiếm đất không còn có thể tổ chức các nghi lễ văn hóa và tâm linh của họ. Một số nông dân nói rằng phần mộ của gia tộc và tổ tiên nằm trong vùng đất canh tác nên đã bị công ty phá hủy, điều này khiến họ không thể tiến hành nghi lễ cầu siêu để linh hồn người chết siêu thoát khỏi thế giới loài người.
Những người nông dân ở các làng bị cướp đất tìm cách liên kết lại với nhau, dưới sự hậu thuẫn của các nhóm nhân quyền địa phương. Tuy nhiên, đơn khiếu nại của họ đã bị tòa án tỉnh từ chối, với lý do nó nằm ngoài thẩm quyền của tòa án. Các khiếu nại gửi đến chính quyền cấp huyện không nhận được phản hồi. Những lá thư gửi tới HAGL không bao giờ nhận được hồi âm, tuy nhiên công ty tiếp tục cho người rào kín các khu đất và ngăn cấm người dân canh tác trên lãnh thổ của họ. Đây chỉ là một trong hàng chục vụ chiếm đất của công ty, đẩy hàng chục ngàn người Campuchia vào cảnh mất đất mất nhà.
Dân làng Srae Angkrong 3 kể lại:
“Công ty đã đến làng và mời dân làng đến nói chuyện về vấn đề đất đai giữa công ty và dân làng. Phía công ty không nói gì trong khi ngài quận trưởng chủ trì buổi nói chuyện… Dân làng cảm thấy thất vọng vì [họ] không thể nói chuyện với công ty… Chính quyền cứ nói rằng đất thuộc về công ty, vì thế dân làng chúng tôi không nên đòi hỏi gì hết… [Một dân làng] thỉnh cầu công ty để lại một khu vực lớn dọc theo bờ suối để dân làng nuôi gia súc… Một vệ sĩ của quận trưởng hỏi [dân làng] rằng mày có biết đến mùi ngục tù chưa?”.
29/12/2020