TS. Đoàn Xuân Lộc
Gửi cho BBC từ Anh quốc
Chẳng hạn, trong chuyến thăm Việt Nam gần đây, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter đã được các lãnh đạo cao cấp của Việt Nam trọng thị đón tiếp. Trong hai ngày ông ở Việt Nam, hai bên còn có những thỏa thuận quan trọng, trong đó có việc ký Tuyên bố tầm nhìn chung về quan hệ quốc phòng.
Nhìn chung, báo chí và dư luận Việt Nam phản ứng khá tích cực về chuyến thăm của ông Carter và những phát triển mới trong quan hệ Việt-Mỹ nói chung.
Có thể nói nhiều
người Việt trong và ngoài nước cảm thấy vui về những bước tiến mới này và muốn
chính quyền tiếp tục đẩy mạnh bang giao với Mỹ vì biết rằng gần Mỹ sẽ mang đến
cho Việt Nam nhiều lợi ích – không chỉ trên bình diện an ninh, quốc phòng mà
còn trong nhiều lĩnh vực khác.
An
ninh, quốc phòng
Tuy từng là cựu
thù, hiện giờ Mỹ không có bất cứ tranh chấp, đe dọa nào đối với Việt Nam về chủ
quyền lãnh thổ, lãnh hải.
Mỹ cũng không có
bất đồng lớn nào với Việt Nam về an ninh, chiến lược. Trái lại, Mỹ có nhiều
điểm chung với Việt Nam trong lĩnh vực này và điểm tương đồng lớn nhất liên
quan đến vấn đề Biển Đông.
Cũng giống như Mỹ,
Việt Nam lo lắng về các động thái rất mạnh bạo – nếu không muốn nói là ngày
càng hung hăng, trắng trợn – của Bắc Kinh ở Biển Đông. Đây cũng là lý do chính
yếu khiến Hà Nội và Washington xích lại gần nhau hơn trong thời gian vừa qua.
Mỹ lo ngại vì tham
vọng bành trướng, bá quyền, bá chủ của Trung Quốc ở Đông Á và Biển Đông nói
riêng sẽ gây bất ổn trong vùng, đe dọa đến quyền lợi của mình. Để giới hạn,
kiềm chế tham vọng của Bắc Kinh và duy trì an ninh, hòa bình khu vực, Mỹ cần
đến sự ủng hộ các nước trong vùng.
Với địa chính trị
khá đặc biệt lại có mô hình chính trị, kinh tế giống Trung Quốc, Việt Nam trở
thành một trong những quốc gia mà Washington muốn củng cố quan hệ.
Nhưng Hà Nội cũng
có nhiều lý do để tăng cường quan hệ với Mỹ.
Có thể cũng như
lãnh đạo nhiều nước khác trong khu vực, giờ các lãnh đạo Việt Nam hiểu rõ được
dã tâm, tham vọng của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Trước những hành
động khiêu khích, lấn chiếm biển đảo của Bắc Kinh trong thời gian qua, có thể
giờ họ cũng nhận ra rằng chỉ bằng con đường đàm phán song phương hay dựa vào một
thứ ‘hữu nghị viễn vông’ nào đó, Việt Nam không chỉ không thể lấy lại được
những hòn đảo đã bị Trung Quốc đánh chiếm mà còn bị người ‘làng giềng’, ‘đồng
chí’ này thôn tính nhiều biển đảo khác thuộc chủ quyền của mình.
Và rất có thể, họ
cũng biết chỉ Mỹ mới có đủ thế lực, khả năng kiềm chế, ngăn chặn tham vọng bành
trướng, bá quyền, bá chủ của Bắc Kinh.
Có thể đây chưa
phải là lúc để Việt Nam thiết lập một liên minh quân sự với Mỹ. Nhưng nếu không
tỏ rõ lập trường, nếu không chủ động tăng cương quan hệ với Mỹ, Việt Nam sẽ
luôn rơi vào tình trạng yếu thế, chịu thua thiệt và bị Bắc Kinh chèn ép trong
vấn đề Biển Đông.
Thân thiện với Mỹ,
Việt Nam không chỉ nhận được sự ủng hộ từ Washington và nhiều nước khu vực mà
còn tranh thủ được sự ủng hộ nhiều nước khác trên thế giới, đặc biệt các nước
thuộc G7 - nhóm bảy quốc gia phát triển nhất thế giới. Đa số các nước trong khu
vực là đồng minh hay có quan hệ gần gũi với Mỹ và tiếng nói, ảnh hưởng của
Washington trong G7 rất lớn.
Một sự ủng hộ như
vậy từ Mỹ và các quốc gia đồng minh, thân cận với Mỹ sẽ giúp Việt Nam rất nhiều
trong vấn đề Biển Đông.
Kinh
tế, thương mại
Ngoài những lợi
thế, lợi ích về mặt chiến lược, quan hệ gần gũi với Mỹ cũng rất tốt cho Việt
Nam về mặt kinh tế. Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Chẳng hạn, theo số
liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt
Nam và Mỹ năm 2014 là 34,7 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất sang Mỹ lên tới 28,5
tỷ USD và nhập từ Mỹ khoảng 6,2 tỷ USD. Như vậy, năm ngoái Việt Nam đã xuất
siêu sang Mỹ tới 22,3 tỷ USD.
Trong khi đó, dù là
đối tác thương mại số một, Trung Quốc chủ yếu xuất sang Việt Nam. Trong năm
2014, Trung Quốc chỉ nhập từ Việt Nam khoảng 15 tỷ USD nhưng xuất sang Việt Nam
đến gần 44 tỷ USD.
Nói cách khác, Việt
Nam đã nhập siêu 29 tỷ USD từ Trung Quốc. Đó là một con số quá lớn, không có
lợi hay tốt đẹp gì cho nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng.
Tường thuật về
phiên thảo luận tại Quốc hội sáng hôm nay (08/06/2014), tờ VnEconomy của Việt
Nam đã trích dẫn phát biểu của ông Mai Hữu Tín, trong đó ông cảnh báo về nguy
cơ nhập siêu từ Trung Quốc.
Nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc tăng nhanh trong những năm qua |
Một chi tiết đáng
lo ngại được ông Tín chỉ ra là theo số liệu của Tổng cục Thống kê Trung Quốc
thì năm 2014, nước này chỉ nhập khẩu từ Việt Nam 19,9 tỷ USD nhưng lại xuất
khẩu sang Việt Nam đến 63,7 tỷ USD.
Như vậy, năm 2014,
Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc là 43,8 tỷ, cao hơn đến 45% so với con số của
Tổng cục Thống kê Việt Nam.
Nếu không có một
thị trường xuất khẩu lớn như Mỹ (và sau đó là Cộng đồng chung châu Âu), nhiều
doanh nghiệp Việt Nam chắc chắn đã rơi vào hoàn cảnh khó khăn, điêu đứng hay
thậm chí bị phá sản.
Điều đáng nói là
nhập siêu từ Trung Quốc của Việt Nam đã liên tục tăng và tăng rất nhanh trong
những năm qua. Chẳng hạn, theo Tổng cục Thống kê Việt Nam, năm 2012 con số nhập
siêu là 16,4 tỷ USD, nhưng năm 2013 con số ây lên 23,7 tỷ USD.
Xu hướng này vẫn
tiếp diễn trong những năm tới nếu Việt Nam không tìm cách điều chỉnh quan hệ kinh
tế với Trung Quốc và cơ cấu xuất nhập khẩu của mình.
Như vậy, nguy cơ từ
Trung Quốc mà Việt Nam phải đối diện không đơn giản chỉ có chuyện chủ quyền
biển đảo mà còn là những thách đố, đe dọa về kinh tế.
Mối quan hệ gần gũi
với Mỹ - và qua đó các doanh nghiệp Việt Nam có thể mở rộng vào thị trường này
hay thị trường các nước khác thuộc TPP mà Hà Nội đang đàm phán với Washington -
chắc chắn sẽ giúp Việt Nam tránh được nguy cơ phụ thuộc quá nhiều vào Trung
Quốc hay bị nền kinh tế này kìm kẹp, gây tác hại.
Một
Việt Nam phồn thịnh
Kinh tế Việt Nam được đặt kỳ vọng |
Có thể cũng vì biết
được điều này, ngay sau chuyến thăm Việt Nam của ông Ashton Carter, tờ Thời báo
Hoàn cầu của Trung Quốc đã có bài viết cảnh báo Việt Nam không nên tin
Washington vì cho rằng Mỹ ‘không thích gì thể chế chính trị ở Việt Nam’ và
nhắc nhở họ rằng Trung Quốc mới là nguồn để họ tìm tính chính danh cho thể chế
chính trị của mình.
Nói cách khác,
trong mắt của Hoàn cầu Thời báo và giới lãnh đạo Trung Quốc nói chung, nếu gần
Washington, xa Bắc Kinh, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ không thể duy trì tính chính
danh, sự tồn tại của mình.
Nhưng có thể nói Mỹ
không có mục đích lật đổ chế độ hay làm phương hại Việt Nam. Trái lại, quốc gia
này chỉ muốn những điều tốt cho Việt Nam.
Đẩy mạnh quan hệ với Mỹ và đưa Việt Nam phát triển
theo hướng mà Mỹ cam kết ủng hộ không chỉ tốt đất nước, người dân Việt Nam mà
còn tốt cho chế độ.
Chẳng hạn, trong
buổi họp báo sau ký Tuyên bố tầm nhìn chung về quan hệ quốc phòng Việt-Mỹ, Bộ
trưởng Quốc phòng Mỹ nêu rõ: ‘Mỹ cam kết ủng hộ một đất nước Việt Nam độc lập,
vững mạnh và thịnh vượng, tôn trọng nhân quyền và pháp quyền’.
Trước đó, khi tiếp
xúc báo chí tại Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày cuối trong chuyến thăm bốn ngày
tới Việt Nam vào tháng 5 vừa qua, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Antony Blinken cũng
nhấn mạnh thiện chí này của Mỹ.
Đây có thể nói là
điểm khác biệt lớn giữa Mỹ và Trung Quốc. Dù dùng mọi lời hoa mỹ, đủ mọi phương
châm như ‘bốn tốt’ hay ’16 chữ vàng’, Bắc Kinh không bao giờ muốn thấy có một
Việt Nam thực sự độc lập, giàu mạnh, phồn thịnh, tự do, dân chủ, minh bạch.
Ngay cả chủ quyền
của Việt Nam Trung Quốc cũng không tôn trọng và luôn tìm cách lấn chiếm biển
đảo của láng giền nói chi đến chuyện muốn Việt Nam giàu mạnh, phồn thịnh, tự
do, dân chủ.
Do đó không quá
ngạc nhiên trong khi có đến 76% người Việt được hỏi có cảm tình với Mỹ, chỉ có
16% thích Trung Quốc, theo thăm dò dư luận của Trung tâm nghiên cứu Pew năm
2014. Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Antony Blinken còn cho biết dựa trên một số khảo
sát, có đến 85% người Việt dưới 30 tuổi có cái nhìn tích cực về Mỹ.
Và có thể cũng vì
hiểu được thiện chí của Mỹ và thấy rõ dã tâm, tham vọng của Trung Quốc, nhiều
người Việt hoan nghênh những bước tiến mới trong quan hệ Việt-Mỹ cũng như ủng
hộ chính quyền trong việc tăng cường quan hệ với Mỹ.
Đẩy mạnh quan hệ
với Mỹ và đưa Việt Nam phát triển theo hướng mà Mỹ cam kết ủng hộ không chỉ tốt
đất nước, người dân Việt Nam mà còn tốt cho chế độ. Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ
không còn bị chỉ trích, tính chính danh, sự tồn tại của của mình sẽ được bảo
đảm nếu giúp xây dựng được một đất nước thực sự độc lập, giàu mạnh, phồn thịnh,
tôn trọng nhân quyền và thượng tôn pháp luật.
Nguồn: Theo BBC