10 décembre 2018

“Chờ đợi” - Nghệ thuật thứ 8


Xuân Dương: "Các “nghị quyết, chỉ thị, kết luận” ban hành nhiều có phải là công cụ hữu hiệu để phòng chống tham nhũng?
Nếu đúng là công cụ hữu hiệu thì vì sao vẫn chưa đẩy lùi được tham nhũng, nếu chưa phải là công cụ hữu hiệu thì có nên thay vì ban hành nhiều nghị quyết, hãy tập trung thực hiện đúng, đủ những quy định hiện hành tức là thượng tôn pháp luật.

Bên cạnh “Thượng tôn pháp luật” còn vấn đề mà người dân và truyền thông thường xuyên đề cập là chính quyền nói nhiều nhưng làm thì hình như không tương xứng?"
Minh họa của ĐAN/ Laodong.vn


Năm 2015 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 39-NQ/TW, theo đó mỗi năm toàn hệ thống phải giảm được 70.000 người, nghĩa là đến năm 2017 phải giảm 140.000 người.

Thực tế là sau khi có Nghị quyết 39-NQ/TW biên chế lại không giảm mà lại tăng thêm 96.000 người, đây là số liệu mà ông Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương cho biết tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc học tập, quán triệt các Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6, khóa XII tiến hành ngày 29/11/2017. [1]

Số liệu thống kê cho thấy năm 2016, cả nước có 270 nghìn công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính Nhà nước từ Trung ương đến cấp huyện. Có 81.492 lãnh đạo cấp phó từ phó phòng đến thứ trưởng. [2]


Nếu chấp nhận tỷ lệ cứ ba cấp phó có một cấp trưởng thì số cấp trưởng sẽ vào khoảng 27.000 người, và tổng số cán bộ lãnh đạo (huyện, tỉnh, bộ) sẽ là trên 100.000 người trong tổng số 270 nghìn cán bộ công chức, bình quân cứ một lãnh đạo có khoảng 1,7 chuyên viên.

Thực tế số lượng cấp phó các cơ quan không mấy khi là 3 người mà nhiều nơi hơn con số ấy, do vậy số cấp trưởng sẽ giảm đi, giả sử 5 cấp phó giúp cho một cấp trưởng thì số lượng cấp trưởng sẽ khoảng 16.000 người.

Trường hợp này xảy ra, sẽ cải thiện đôi chút, nghĩa là trong toàn bộ hệ thống cứ khoảng 2 chuyên viên có một lãnh đạo!

22 năm trước, Bộ Chính trị khóa VII ban hành Nghị quyết số 14/NQ/TW “Về lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng” (ngày 15/5/1996).

Một số ý kiến cho rằng đây là nghị quyết đầu tiên của Đảng liên quan đến hiện trạng tham nhũng trong hệ thống.

Tuy nhiên tiêu đề nghị quyết cho thấy nghị quyết này chỉ mới đề cập đến “chống” tham nhũng chứ chưa đề cập đến “phòng” và cũng chưa nói đến chống “lãng phí”.

Phải đến Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X thì trung ương mới ban hành nghị quyết “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”…

Cùng với các nghị quyết là việc ban hành, sửa đổi, bổ sung các đạo luật như Bộ luật Hình sự, Bộ Luật Tố tụng hình sự,…

Kết quả đạt được của việc ban hành rất nhiều nghị quyết, luật và các văn bản dưới luật về phòng chống tham nhũng là gì?

Nghị quyết của Trung ương là phải giảm biên chế nhưng thực tế biên chế lại tăng có phải là một dạng tham nhũng chính sách, vi phạm pháp luật hay chỉ là tình trạng “Trên bảo dưới không nghe”?

Liệu có tình trạng coi Nghị quyết của Đảng không giống như các văn bản quy phạm pháp luật nghĩa là nếu làm trái không bị coi là phạm pháp?

Năm 2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 108/2014/NĐ-CP “Về chính sách tinh giản biên chế”.

Năm 2018 lại ban hành Nghị định số 113/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2014/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách tinh giản biên chế.

Ngày 30/10/2017, Quốc hội khóa 14 đã có phiên thảo luận toàn thể tại hội trường về việc thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2016. Các đại biểu Quốc hội đã nêu dẫn chứng:

Bộ Tài chính còn dư tới 6.318 trên tổng số 71.714 biên chế bằng 8,8%. Bộ Nội vụ còn dư 492/872 biên chế bằng 56%, Bộ Ngoại giao dư 334/1.179 biên chế bằng 28%...”. [3]

Như vậy, việc biên chế phình to thêm sau khi có các Nghị quyết của Đảng, ý kiến của Quốc hội và Nghị định của Chính phủ trải đều trong cả ba lĩnh vực: “Vi phạm pháp luật; Tham nhũng chính sách; Trên bảo dưới không nghe”.

Một khi đã liên quan đến pháp luật (không tuân thủ các điều khoản trong nghị định của Chính phủ) thì pháp luật phải xử lý, vậy bao nhiêu người/cơ quan đã bị xử lý vì góp phần làm tăng thêm biên chế 96.000 người?

Hình như chưa có người nào bị kỷ luật nặng hay ra tòa về chuyện này.

Bài viết đăng trên Nhandan.com.vn (ngày 22/6/2018) đã thẳng thắn nhìn nhận thực trạng phòng chống tham nhũng như sau:

Tham nhũng là một trong bốn nguy cơ được Ðảng ta chỉ ra từ lâu và đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận, nhằm tăng cường lãnh đạo để đẩy lùi nguy cơ này.

Nhưng, trên thực tế, đây vẫn là vấn nạn bức xúc, nhiều vụ tham nhũng tiêu cực gây thất thoát hàng nghìn tỷ đồng, nhiều dự án kinh tế lớn chết yểu, trở thành con nợ của nền kinh tế; không ít cán bộ vướng vào vòng lao lý, bị phạt tù chung thân, thậm chí là tử hình vì tham nhũng, tiêu cực.

Lòng tin của nhân dân có lúc bị giảm sút đáng kể”. [4]

Một khi đã ban hành “nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận, nhằm tăng cường lãnh đạo để đẩy lùi nguy cơ (tham nhũng)” nhưng tham nhũng vẫn hoành hành cả về mức độ, quy mô lẫn cấp bậc các đối tượng phạm tội thì có nên đặt câu hỏi: “Vì sao lại xuất hiện nghịch lý này”?

Nói cách khác, các “nghị quyết, chỉ thị, kết luận” ban hành nhiều có phải là công cụ hữu hiệu để phòng chống tham nhũng?

Nếu đúng là công cụ hữu hiệu thì vì sao vẫn chưa đẩy lùi được tham nhũng, nếu chưa phải là công cụ hữu hiệu thì có nên thay vì ban hành nhiều nghị quyết, hãy tập trung thực hiện đúng, đủ những quy định hiện hành tức là thượng tôn pháp luật.

Bên cạnh “Thượng tôn pháp luật” còn vấn đề mà người dân và truyền thông thường xuyên đề cập là chính quyền nói nhiều nhưng làm thì hình như không tương xứng?

Xin dẫn chứng qua hai sự kiện:

Trong khi một số địa phương đang hăng hái sắp xếp tổ chức các cơ quan chuyên môn (cấp huyện, tỉnh) theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW và Kết luận 34 của Bộ Chính trị “Về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” thì mới đây Bộ trưởng Nội vụ Lê Vĩnh Tân đã ký văn bản gửi Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương yêu cầu tạm dừng việc sắp xếp các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh (sở, ngành), cấp huyện (phòng, ban) vì lý do Bộ Nội vụ đang trình Chính phủ dự thảo nghị định liên quan đến vấn đề này.

Nghị quyết 18-NQ/TW ban hành tháng 10/2017, đến nay đã hơn một năm, dự thảo nghị định mới được trình, chưa được duyệt, vậy bao giờ sẽ thực hiện?

Còn nhớ chuyện thi tuyển Hiệu trưởng Đại học Luật Hà Nội, việc thực hiện thi tuyển lãnh đạo tại các đơn vị trực thuộc Bộ Tư pháp được thực hiện theo đúng chủ trương chỉ đạo của Đảng và Nhà nước.

Tuy nhiên người trúng tuyển không được bổ nhiệm vì tại thời điểm đó, Bộ Nội vụ dưới sự chỉ đạo của Ban Cán sự Đảng Chính phủ còn đang hoàn thiện đề án “Thí điểm đối mới, cách tuyển chọn cán bộ, lãnh đạo quản lý các cấp”.

Vì sao không ít văn bản chỉ đạo lại được ban hành chậm hơn nhiều so với những gì diễn ra trong cuộc sống? Vướng về cơ chế, chậm do chỉ đạo hay còn những rào cản khác chẳng hạn đội ngũ “cắp ô” quá nhiều nên thiếu người … soạn thảo văn bản?

“Nhốt quyền lực vào lồng” để kiểm soát có phải là lý do cho việc một số cơ quan thuộc Chính phủ lúc ấy không dám đột phá hay sợ chưa đủ kinh nghiệm thực tế để tổng kết thành văn bản quy phạm pháp luật?

Chủ trương xây dựng một Chính phủ “minh bạch, kiến tạo,…” sẽ thế nào nếu những gì đã và đang diễn ra trong thực tế luôn phải chờ những văn bản chỉ đạo?

Từ nghị quyết đến nghị định, từ lời nói đến việc làm luôn có một khoảng cách “rất dài và rất xa” vậy phải chăng sau “Nghệ thuật thứ 7” là Điện ảnh, nước Việt nên hình thành “Nghệ thuật thứ 8” là “Chờ đợi”?


Tài liệu tham khảo:

[1]https://www.tienphong.vn/xa-hoi/bien-che-tang-them-96000-nguoi-bat-luc-vi-thieu-che-tai-1213670.tpo

[2] http://www.sggp.org.vn/hai-nam-thuc-hien-tinh-gian-bien-che-da-tang-them-96000-nguoi-va-chi-thuong-xuyen-tang-1625-485218.html

[3]http://quochoi.vn/UserControls/Publishing/News/BinhLuan/pFormPrint.aspx?UrlListProcess=/content/tintuc/Lists/News&ItemID=34079

[4] http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/36765602-phong-chong-tham-nhung-lang-phi-can-quyet-liet-dong-bo-hon-nua.html


Xuân Dương