The New York Times International Edition
Saturday
- Sunday, February, 16-17, 2019
Nguyên tựa bài báo: Making Peace in
Afghanistan? Moscow Has Some Lessons
Tác giả bài báo: Artemy Kalinovsky
Người dịch: Du Lam
Ông Artemy Kalinovsky là giảng viên cao cấp của Trung tâm Nghiên cứu Đông Âu thuộc Đại học Amsterdam và là tác giả, gần đây nhất, của cuốn sách “Phòng thí nghiệm Phát triển Xã hội Chủ nghĩa: Đời sống Chính trị trong Chiến tranh Lạnh và Công cuộc Phi thuộc địa hóa tại quốc Tajikistan Xô-viết”.Ông cunag là tác giả của cuốn sách “LỜI TẠM BIỆT MỘT LẦN VÀ MÃI MÃI: Liên-Xô rút quân khỏi Afghanistan” (A Long Goodbye: The Soviet Withdrawal From Afghanistan).
Một đoàn xe bọc thép chở quân của Liên-xô vượt qua một cây cầu ở Termez, ngày nay thuộc CH Uzbekistan, trong thời gian quân đội Xô-viết rút lui khỏi Afghanistan vào năm 1988. |
Kể
từ khi những đội quân đầu tiên xâm nhập vào Afghanistan vào tháng 12 năm 1979,
Liên-xô đã cố gắng giúp đỡ chính quyền xã hội chủ nghĩa ở Kabul chống lại một
chùm dây rợ các nhóm quân nổi dậy (nguyên văn: “fight off a constellation of
insurgents”), nhóm người nổi dậy ấn tượng nhất trong số họ nhận được viện trợ
từ Hoa Kỳ và Ả Rập Saudi, được vận chuyển tới thông qua Cơ quan tình báo hỗn
hợp của Pakistan (nguyên văn: “working through Pakistan’s Inter-Services
Intelligence - ISI”. Cả Trung Quốc cũng cung cấp viện trợ. Đến năm 1989,
Liên-xô, rốt cuộc, cũng đã chấm dứt các hoạt động tác chiến tại Afghanistan.
Ba
mươi năm sau, chính Hoa Kỳ giờ đây cũng dường như đang tuyệt vọng rút khỏi đất
nước này sau một cuộc chiến bầm dập. Và Moscow một lần nữa lại can dự vào
Afghanistan, mặc dù lần này họ muốn đóng vai trò là nhà trung gian hòa giải:
Vào tháng 11 (2018), Nga đã tổ chức các cuộc hội đàm giữa Taliban, Hội đồng Hòa
bình cấp cao và các đại diện của các cường quốc khu vực. Vào ngày 4 tháng 2
(2019), Nga đã chủ trì cuộc gặp của các các đại diện của Taliban và các nhóm
khác phản đối chính phủ của Tổng thống Ashraf Ghani để đàm phán thêm.
Hoa
Kỳ, và ông Ghani (Tổng thống đương nhiệm của Afghanistan – người dich) nhìn
nhận những nỗ lực của Moscow với một sự nghi ngờ. Nhưng việc nghĩ lại về trải
nghiệm (kinh hoàng và đau đớn – người dịch) của Liên-xô có thể giúp hiểu được
việc Moscow đang toan tính gì - và cả những giải pháp, những lựa chọn nào dành
cho Hoa Kỳ và các đồng minh nếu họ suy nghĩ nghiêm túc về nền hòa bình ở
Afghanistan.
Mikhail
Gorbachev, người lên nắm quyền năm 1985, đã hy vọng rằng ông ta có thể chấm dứt
cuộc chiến tranh (của Liên-xô tại Afghanistan – người dịch) bằng cách khiến Hoa
Kỳ và các đồng minh của nó chấm dứt sự ủng hộ đối với đội quân thánh chiến (hay
mujahedeen, như họ được biết đến với cái tên như vậy) để đổi lấy việc Liên-xô rút
quân (ra khỏi Afghanistan). Nhưng chính quyền Reagan chỉ đồng ý chấm dứt hỗ trợ
nếu Liên-xô ngừng tất cả mọi viện trợ quân sự cho Kabul. Và Washington đã đòi
hỏi việc giải tán của chính quyền xã hội chủ nghĩa (tại Kabul, Afghanistan) là điều
kiện tiên quyết cho bất kỳ một sự dàn xếp nào.
Ông
Gorbachev hiểu rằng Đảng Dân chủ Nhân dân Afghanistan không thể tự nó duy trì
được quyền lực, nhưng ông hy vọng rằng các nhà xã hội chủ nghĩa (tại
Afghanistan) có thể trở thành thành phần nòng cốt của một chính phủ liên minh
mới. Cuối cùng, ông tuyên bố rút quân mà không cần chờ đến khi có được một thỏa
thuận (bằng văn bản), với hy vọng rằng Washington, Islamabad và mujahedeen sẽ
nhận ra sự nghiêm túc trong ý định của Liên-xô và sẽ làm những gì tốt nhất cho
Afghanistan.
Nhưng
tình hình đã không diễn ra theo kịch bản đó. Vào thời điểm Liên-xô gục ngã (và
không bao giờ còn có thể gượng dậy được nữa để thực hiện nốt cái sứ mạng được
cho là lịch sử của nó: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết
lại” – người dịch) vào cuối năm 1991,
cuộc nội chiến ở Afghanistan vẫn không gần hơn với một giải pháp nào so với năm
1989. Vào tháng 4 năm 1992, việc Kabul thất thủ, rơi vào tay các lực lượng đối
lập cũng không dẫn đến hòa bình. Thay vào đó, các lực lượng đối lập đã trở mặt,
quay súng bắn lại nhau, báo hiệu một giai đoạn mới của cuộc nội chiến không
ngừng nghỉ mà sẽ kéo dài gần 40 năm.
Chiến
lược của ông Gorbachev có vẻ ngây thơ khi giờ đây có điều kiện để nhìn lại:
Liệu người Mỹ có thực sự cho phép một người xã hội chủ nghĩa duy trì quyền lực?
Các nhân vật đối lập quan trọng có thể được thuyết phục để tham gia một chính quyền
vẫn do kẻ thù không đội trời chung của họ lãnh đạo? Tuy nhiên, việc xem xét
những gì diễn ra sau công cuộc rút lui của Liên-xô - sự trỗi dậy của Taliban,
vai trò của Osama bin Laden, vòng xoáy nội chiến mới sau cuộc can thiệp do Hoa
Kỳ lãnh đạo từ năm 2001 - khó có thể cho phép nhìn nhận năm 1989 là một cơ hội
bị bỏ lỡ. Ông Gorbachev không mong đợi một phép màu, những gì mà ông ta kỳ vọng
chỉ là Hoa Kỳ sẽ gây áp lực đủ lớn đối với các đồng minh và các khách hàng của
họ để đưa họ ngồi vào bàn đàm phán, điều này, đến lượt nó, sẽ giúp ông dễ dàng
gây áp lực đối với các đồng minh ở Kabul đi đến một thỏa hiệp.
Kinh
nghiệm đó đáng để xem xét khi Hoa Kỳ có kế hoạch rút quân khỏi Afghanistan. Cuộc
đàm phán để biến Afghanistan thành một nền dân chủ tự do đã trở nên nhạt nhòa từ
lâu, cũng giống như bất kỳ một ý niệm nghiêm túc nào về việc xây dựng chủ nghĩa
xã hội đối với những người Xô-viết vào năm 1989. Nhưng có lẽ vẫn còn một hy
vọng nào đó để chấm dứt một vòng xoáy giết chóc. Trong vài năm qua, Nga đã đóng
một vai trò chủ động hơn ở Afghanistan. Sự can dự của nó đã được đáp ứng mà
không thiếu sự hoài nghi từ Washington, Washington vốn lo ngại rằng, bằng cách nhìn
nhận Taliban như một lực lượng hợp pháp, Moscow đang làm suy yếu chính phủ của
ông Ghani.
Tuy
nhiên, suy nghĩ của Moscow về Afghanistan ngày nay dường như phản ánh cách tiếp
cận của nó 30 năm trước. Trở lại thời gian đó, giới lãnh đạo Liên-xô không kỳ
vọng vào việc rằng chính quyền (xã hội chủ nghĩa, thân Liên-xô – người dịch) có
thể tồn tại mà không có quân đội nước ngoài (Liên-xô) và hy vọng sẽ xây dựng
một hình thức chính phủ liên minh nào đó với các đồng minh của nó (Liên-xô) làm
nòng cốt. Lần này, Nga không phải là một bên tham chiến, nhưng suy nghĩ thì
không khác mấy: Khi các quan chức Nga nói một cách cởi mở, họ không tin rằng
Hoa Kỳ và các đồng minh sẽ có thể ổn định tình hình tại Afghanistan. Chính phủ
của ông Ghani sẽ không tồn tại nếu không có quân đội nước ngoài. Điều đáng lo
ngại hơn nhiều từ quan điểm của Moscow (và thực sự, cũng là của Washington) là
sự hiện diện của Nhà nước Hồi giáo hoặc Al Qaeda. Moscow có thể không thích
Taliban, nhưng các quan chức Nga coi sự tham gia của nhóm này vào một chính phủ
tương lai là khả năng thực tế duy nhất cho một nền hòa bình bền vững. Và vì rằng
Taliban dường như không có thể đi đến một nơi nào đó (để đàm phán), cho nên nó đã
tạo ra một ý nghĩa đối với Nga để tạo ra một thiện chí nào đó đối với phong
trào này (Taliban).
Tuy
nhiên, cái mà chiến lược của Moscow kỳ vọng là rằng Taliban có thể được thuyết
phục để trở thành một trong những bên tham gia vào một cuộc dàn xếp, chứ không
phải là chủ nhân tuyệt đối của đất nước. Như các cuộc đàm phán gần đây tại Doha
cho thấy, Washington không phản đối một kết cục như vậy.
Việc
đạt được một thỏa thuận sẽ là một điều khó khăn. Một mặt, lập trường, quan điểm
mà Taliban đã tuyên bố rất giống với lập
trường, quan điểm của quân thánh chiến Hồi giáo (the mujahedeen) vào những năm
1980: Họ muốn tất cả các lực lượng nước ngoài phải được triệt thoái và từ chối
công nhận chính phủ ở Kabul là hợp pháp. Mặt khác, ý tưởng về việc Taliban trở
lại nắm quyền lực ở Kabul rõ ràng là khó tiêu hóa đối với nhiều người ở phương
Tây, cũng như đối với nhiều người Afghanistan. Hơn thế nữa, Taliban không chỉ
tự mình gây ra vô số sự hủy hoại tại chính đất nước của nó (Taliban), mà hàng
ngàn sinh mạng và hàng tỷ đô la đã bị ném vào cuộc chiến đấu với nó (Taliban).
Những
người chỉ trích cả hai cuộc chiến do Liên-xô và Mỹ đứng đầu thường nói rằng những
người dân Afghanistan nên tự quyết định vận mệnh của mình mà không cần có sự
can thiệp của nước ngoài. Điều đó là đúng đắn, nhưng không thể xảy ra: Các
cường quốc khu vực và toàn cầu đã can thiệp vào các cuộc nội chiến Afghanistan
kể từ cuối những năm 1970 sẽ không để điều đó xảy ra, nếu chỉ vì họ sợ rằng cái
mất của mình sẽ là cái được củakẻ khác.
Nhưng
thực tế là những tổn thất mà Liên-xô phải hứng chịu trong những năm 1980 và Hoa
Kỳ và các đồng minh kể từ năm 2001 chỉ là một phần nhỏ của những gì mà người
dân Afghanistan đã phải hứng chịu trong suốt 40 năm qua. Nga và Hoa Kỳ - và
Trung Quốc, Iran, Pakistan và Ấn Độ - đều hy vọng sẽ định hình tương lai của Afghanistan.
Trở lại năm 1989, việc đưa các bên tham chiến ở Afghanistan đồng ý với một thỏa
thuận hòa bình đã là đủ khó khăn rồi. Tiếp đó, sự ganh đua, tham vọng và sự ngờ
vực kéo dài giữa các cường quốc bên ngoài đã phá hủy mọi triển vọng hòa bình đã
được tạo ra bởi cuộc rút quân của Liên-xô. Lần này, các quốc gia khác cần phải tận
dụng mọi cơ hội có được để bảo đảm một nền hòa bình cho Afghanistan.
THE END