Con đường
dân chủ hoá
Nước Đức có
cả một đoạn đường dài tiến tới dân chủ. So với các quốc gia láng giềng, Đức
đã thay đổi chính thể nhiều lần. Sau thế chiến thứ nhất (1914-1918), chính
thể quân chủ lập hiến được thay thế bằng chính thể cộng hòa Weimar (1919-1933)
mở đầu cho tiến trình dân chủ hóa nước Đức. Cộng hòa Weimar tồn tại được 14 năm
bị độc tài quốc xã của Hitler
(Nationalsozialismus), một biến thể của độc tài Phát
xít tiếm quyền vào năm 1933. Quốc xã đưa Đức vào thế chiến thứ hai
(1939-1945) và sau khi bị bại trận chế độ độc tài quốc xã (1933-1945)
sụp đổ.
Từ năm 1945,
Đức bị Tứ cường chiến thắng (Anh, Pháp Mỹ và Liên xô ) chiếm đóng và chia Đức thành 4 vùng. Ba vùng miền Nam, Bắc và Tây do Anh, Mỹ và Pháp quản
lý. Vùng Đông do Liên xô cai trị. Năm 1948 ba đồng minh phương Tây muốn
Đức có một bản Hiến pháp để tổ chức lại cơ cấu nhà nước. Vào ngày 1.9.1948 tại Bonn, Hội đồng nghị viện (
parlamentarischer Rat) thay vì Hội đồng lập hiến (verfassungsgebende
Versammlung) được triệu tập và thông qua một văn kiện pháp lý không
gọi là Hiến Pháp (Verfassung) mà là "Luật cơ bản" (Grundgesetz - GG). 65 đại biểu
của các Nghị viện tiểu bang tham dự Hội nghị này. Ngày 23.05.1949
Konrad Adenauer với tư cách chủ tịch Hội đồng Nghị viện công bố ban
hành Luật căn bản. Ngày này cũng được nhìn nhận là ngày thành lập
Cộng hòa Liên bang Đức (BRD) với thủ đô Bonn. Dựa trên văn kiện pháp lý, các
cuộc bầu cử đầu tiên được xúc tiến. Bầu Nghị hội liên bang (Bundestag)
gọi là Quốc hội hay Hạ Nghị Viện diễn ra vào ngày 14.08.1949. Kế tiếp 7.
9.1949 lập Hội đồng Liên bang
(Bundesrat) hay Thượng Viện. Ngày 12.09.1949 bầu Nhà Báo
Theodor Heuss, chủ tịch đảng Dân chủ Tự do FDP làm Tổng thống liên bang (Bundespräsident)
và vào ngày 15.09.1949 bầu cựu thị trưởng thành phố Köln ( Cologne)
Konrad Adenauer, chủ tịch Liên minh Dân chủ Thiên chúa giáo CDỤ vào chức
vụ Thủ tướng.
Tại Đông
Đức vào ngày 7.10.1949 Ủy ban quân
quản Liên xô dựng lên một chế độ độc tài xã hội chủ nghĩa với danh xưng Cộng
hòa dân chủ Đức (DDR) do đảng thống nhất xã hội chủ nghiã Đức ( SED) cầm quyền. Sau khi bức tường Bá Linh sụp
đổ (9.11.1989) chế độ cộng sản Đông Đức cáo chung và nước Đức thống
nhất vào ngày 3.10.1990. Nước Đức nhận lại chủ quyền
toàn vẹn, kết thúc 45 năm bị Tứ cường chiếm đóng và nhân dân hai miền
Đông-Tây cùng nhau chung sức phát triển một quốc gia dân chủ hiến trị.
Quá trình
lập hiến
Sau cách
mạng tháng 2 năm 1848 của Pháp, ở Đức cũng như nhiều nước Châu Âu khác, nhiều
cuộc biểu tình, đấu tranh chống phong kiến đã diễn ra mạnh mẽ. Hiến pháp nhà
thờ thánh Phao lô (Paulskirchenverfassung) hay còn được gọi là Hiến pháp Frankfurt
của Phổ được thông qua bởi một Quốc hội lập hiến vào ngày
28.03.1849. Hiến pháp Frankfurt là bản hiến pháp dân chủ của toàn nước Đức, dự kiến một hệ
thống chính trị theo chính thể quân
chủ lập hiến, ghi nhận, bảo vệ quyền con người và chống lại sự lạm quyền của
nhà nước. Các quyền
cơ bản của công dân có thể kháng cáo trước toà án. Năm 1871 dưới thời Thủ tướng
Bismark, Hiến pháp vương quốc Bismark (Bismarcksche Reichsverfassung) được
ban hành. Hiến pháp này chỉ đề cập đến vấn đề tổ chức nhà nước và hoàn toàn
không nêu ra những quyền cơ bản của công dân.
Thế chiến
thứ nhất (1914-1918) chấm dứt, Đức bại trận chấp nhận Hoà ước
Versailles. Một bản Hiến pháp mới được soạn thảo, thông qua ở thành phố
Weimar, gọi là Hiến pháp cộng hoà Weimar (Weimarer Verfassung) có
hiệu lực từ ngày 14/8/1919. Với Hiến pháp Weimar, Đức lần đầu tiên trở
thành một quốc gia cộng hoà dân chủ đại nghị. Chính thể Weimar là
chính thể hỗn hợp mang đặc tính của Tổng thống chế và Đại nghị
chế. Về mặt tổ chức quốc gia, Hiến pháp Weimar phân định
cấu trúc liên bang và các tiểu bang cũng như xác định tính
chất pháp lý, nhiệm vụ
của các thiết chế hiến định (Verfassungsorgane) Hạ viện,Thượng viện,Tòa
án,Tổng thống và Chính phủ. Trong Hiến pháp này, các quyền căn bản được quy định rõ
ràng như quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng, quyền tự do kinh doanh, bất khả xâm phạm nơi cư ngụ, quyền
tự do ngôn luận, quyền tự do
biểu tình, quyền tự do bầu cử, quyền bình đẳng nam nữ, quyền sở hữu, quyền thừa
kế.
Luật Cơ
Bản của Liên bang cộng hoà Đức (Grundgesetz für
die Bundesrepublik) được phê chuẩn
tại Bonn và có hiệu lực từ ngày 23.05.1949. Từ Luật cơ bản được
dùng thay vì hiến pháp để chỉ tính tạm thời chỉ có giá trị cho Tây Đức, và một
hiến pháp mới sẽ thay thế khi nước Đức
thống nhất.
Dựa trên những
nội dung tiến bộ cùa Hiến pháp cộng hòa
Weimar và Hiến pháp Frankfurt cũng như tiếp thu những kinh nghiêm trong
quá trình lập hiến, Luật cơ bản được soạn thảo
có hệ thống mẫu mực phù hợp điều kiện của đất nước.
Nội dung
Luật cơ bản hay Hiến pháp CHLB Đức
Luật cơ bản có 146 Điều, chia thành 11 Chương như
sau:
Lời nói đầu
1. Các
quyền cơ bản từ Điều 1 đến 19
2. Liên bang
và Tiểu bang từ Điều 20 đến 37
3. Quốc hội
– Hạ Viện từ Điều 38 đến 49
4. Thượng
Viện từ Điều 50 đến 53
4a. Ủy ban
hỗn hợp từ Điều 53a
5. Tổng
thống từ Điều 54 đến 61
6. Chính
quyền liên bang từ Điều 62 đến 69
7. Hành
pháp liên bang từ Điều 70 đến 82
8. Thi hành
luật và hành chính liên bang từ Điều 83 đến 91
8a. Nghiã vụ
chung và hợp tác hành chính từ Điều 91a đến 91e
9. Tư pháp
từ Điều 92 đến 104
10. Tài
chính từ Điều 104a đến 115
10a. Quốc phòng từ Điều 115a đến 115l
11. Quy định
chuyền tiếp và cuối cùng từ Điều 116 đến 146
Sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ và nước Đức thống nhất 3.10.1990, Luật cơ bản trở thành Hiến pháp của toàn nước Đức với thủ đô
Bá Linh (Berlin).
Ý nghĩa
Hiến Pháp
1. Hiến
pháp là khởi nguồn của hệ thống chính danh
Hiến
pháp thường được hiểu là một trật tự pháp lý cơ bản giới hạn quyền lực, ràng
buộc trách nhiệm nhà nước và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân. Đó là tổng
thể tất cả các qui phạm qui định trật tự pháp lý cơ bản của nhà nước, đặc biệt
là các vấn đề hình thức nhà nước, cơ chế xác lập các cơ quan nhà nước tối cao
và bảo vệ các quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Tuy nhiên Hiến pháp Đức không đơn thuần
chỉ là bản điều lệ tổ chức quốc gia,ngoài các điều khoản quy định
chính thể cộng hoà, dân chủ, cấu trúc liên bang, các cơ quan
liên bang, thẩm quyền tư pháp, hành chính, bầư cử, bổ nhiệm...Hiến
pháp còn làm rõ nguồn gốc chính danh cho sự cai trị cũng như thực
hiện ý tưởng Nhân quyền, dân quyền.
Lời nói
đầu (Präambel) “Ý thức trách nhiệm trước Thiên chúa và loài người, với mong muốn phục vụ hòa bình thế
giới trên tư cách là một thành viên bình đẳng trong một Châu Âu liên
hợp, thông qua cơ quan lập hiến của mình, nhân dân Đức đã tự ban hành Luật
căn bản này” đã thể hiện tinh thần tự chủ, tự ý thức, tự trách nhiệm và quyết
định ý muốn của một dân tộc tự do không phải xin phép người nào dù
đất nước đang bị chiếm đóng. Luật pháp tân tiến của Phương Tây được
hiểu là những kết quả thể hiện ý muốn tự do của công dân.
Tuyên xưng "ý thức trách nhiệm trước Thiên
chúa" trong Lời
nói đầu không có ý nghĩa đề cao Thiên chúa giáo và phân biệt các tôn
giáo hay tín ngưỡng khác, mà các nhà kiến tạo Hiến pháp muốn nhấn
mạnh bản sắc văn hoá mà đất nước Đức xây dựng và phát triển dựa
trên Thiên chúa giáo. Nhà nước
không thể thờ ơ một khi gốc rễ tôn giáo và tinh thần của
dân tộc bị suy yếu và hiểm nguy.
2. Hiến
định các quyền cơ bản
Điều đầu
tiên, trang trọng nhất của Luật Cơ bản của Đức là quy định về nhân phẩm:
Điều 1
[Nhân phẩm – nhân quyền – giá trị pháp lý của các quyền cơ bản]
"Phẩm giá con người là bất khả xâm phạm.
Tôn trọng và bảo vệ nó là nhiệm vụ của tất cả các cơ quan nhà nước. Nhân
dân Đức do đó thừa nhận các quyền bất khả xâm phạm và bất khả nhượng của con
người như là cơ sở của mọi cộng đồng, của hòa bình và công lý trên thế
giới. Các quyền cơ bản sau đây sẽ ràng buộc các cơ quan lập pháp,
hành pháp và tư pháp như luật có thể áp dụng trực tiếp". Các quyền cơ bản từ điều 2 tới 19 cũng là những quyền công
dân và quyền cơ bản tư pháp được thể hiện có hệ thống,
mẫu mực, đầy đủ và
rõ ràng. Các điều
này đảm bảo con người hành sử tự do để thăng tiến. Điều 2 [Tự do cá nhân] Điều 3
[Bình đẳng trước pháp luật] Điều 4 [Tự do tín ngưỡng và lương tâm] Điều 5 [Tự do ngôn luận]
Điều 6 [Hôn nhân - gia đình - trẻ em] Điều 7 [Hệ thống giáo
dục] Điều 8 [Tự do hội họp] Điều 9 [Tự do lập hội]
Điều 10 [Bảo mật thư tín, bưu chính và viễn thông] Điều 11 [Tự do đi lại] Điều 12 [Tự do nghề nghiệp] Điều
13 [Bất khả xâm phạm nhà riêng] Điều 14 [Tài sản - thừa kế - tước quyền sở
hữu] Điều 15 [Xã hội hóa] Điều 16 [Quốc tịch - dẫn
độ] Điều 16a [Quyền tị nạn] Điều 17 [Quyền khởi kiện] Điều 17a
[Hạn chế quyền cơ bản trong các trường hợp cụ thể] Điều 18 [Tước quyền cơ
bản] Điều 19 [Hạn chế các quyền cơ bản – các cơ chế pháp lý]
“Nhân phẩm
là bất khả xâm phạm” phản ánh đầy đủ tính nhân bản, tính dân tộc và tính thời
đại của Hiến pháp Đức. Những hành vi của công quyền như bắt người làm nô lệ,
tra tấn, phân biệt đối xử, làm nhục, từ chối cung cấp những điều kiện sống tối
thiểu của một con người đều là những hành vi xâm phạm nhân phẩm và vi hiến. Tất
cả mọi người đều được bảo vệ nhân phẩm, không phân biệt người đó là ai, trẻ em
hay người trưởng thành, người bị tâm thần hay tội phạm, Không chỉ việc tử hình
bị coi là vi phạm nhân phẩm con người, mà ngay cả hình phạt tù chung thân (die
lebenslange Freiheitsstrafe) không chú ý đến khả năng hoàn lương của con người
cũng bị coi là vi phạm nhân phẩm.
3. Xây
dựng một chế độ đại nghị, dân chủ, pháp trị và đa đảng
Điều
20 [Những nguyên tắc hiến định - bảo vệ trật tự hiến pháp]
"Cộng hòa Liên bang Đức là một
nhà nước liên bang dân chủ và xã hội. Mọi quyền lực của các cơ quan nhà
nước có nguồn gốc từ nhân dân. Quyền lực đó được thực hiện bởi nhân
dân thông qua bầu cử, việc bỏ phiếu và thông qua các cơ quan lập pháp, hành pháp
và tư pháp cụ thể. Cơ quan lập pháp sẽ bị ràng buộc vào hệ thống hợp
hiến, hành pháp và tư pháp vào luật pháp.“
Sự tổ chức ở Liên bang và các tiểu bang được thực hiện theo
những nguyên tắc quy định trong điều 20 của Luật cơ bản: Cộng
hoà, Dân chủ, Pháp trị xã hội
và liên bang, Các nguyên tắc này sẽ chỉ định thiết lập các cơ quan hiến định,
với thẩm quyền,phân quyền,kiểm soát và cân bầng nhau.
Nguyên tắc dân chủ đòi hỏi mọi quyền lực xuất phát từ ý dân thể
hiện qua bầu cử hay biểu quyết.
Lập Pháp
Chính thể nước hiện nay là chính thể cộng hòa đại nghị điển hình trên thế
giới. Nghị viện gồm Quốc hội liên
bang, gọi là Hạ Viện liên bang ( Bundestag) và Hội đồng liên bang,gọi
là Thượng viện liên bang (Bundesrat)
Hạ Viện
Điều 38 [Bầu cử] "Thành viên của Hạ viện Đức được bầu từ các
cuộc bầu cử phổ thông, trực tiếp, tự do, bình đẳng và bỏ phiếu kín.
Họ đại diện cho toàn dân, không bị ràng buộc bởi các chỉ đạo hoặc hướng
dẫn và chỉ chịu trách nhiệm trước lương tâm mình. Mọi người đã đến
tuổi 18 sẽ được quyền bỏ phiếu, người nào đã đạt tuổi trưởng thành đều được
bầu.“
Điều 39 [Nhiệm kỳ - Triệu tập] "Hạ
viện được bầu theo nhiệm kỳ 4 năm. Nhiệm kỳ của nó kết thúc khi Hạ viện
mới được triệu tập“.
Thượng Viện
Điều 50 [Các chức năng] "Các Bang sẽ tham gia, thông qua Thượng viện, vào
hoạt động lập pháp, hành chính của Liên bang và các vấn đề liên quan đến
Liên minh Châu Âu.“
Điều 51 [Thành phần] "Thượng viện sẽ bao gồm các thành viên của chính quyền
các Bang, các Bang bổ nhiệm và triệu hồi các thành viên đó. Các thành viên khác
của các chính quyền đó có thể hoạt động thay thế. Mỗi Bang sẽ có tối thiểu 3 phiếu bầu; các Bang có hơn
2 triệu dân sẽ có 4 phiếu, các Bang có hơn 6 triệu dân sẽ có 5 phiếu, và các
Bang hơn 7 triệu dân sẽ có 6 phiếu.“
Về hành pháp, Hiến
pháp có hai thiết chế
Tổng thống liên bang
Điều 54 [Bầu cử Tổng Thống Liên Bang] "Tổng
thống Liên bang sẽ được bầu bởi Hội nghị Liên bang (Bundesversammlung) mà không qua tranh luận. Bất kỳ công dân
Đức đủ điều kiện bầu cử Hạ viện và đủ 40 tuổi có thể ứng cử.
Nhiệm kỳ của Tổng thống Liên bang là 5 năm. Việc tái
cử nhiệm kỳ chỉ được phép một lần.
Hội nghị Liên bang sẽ bao gồm các thành viên của Hạ
viện và một số tương đương thành viên được bầu bởi nghị viện các Bang trên
cơ sở đại diện tỷ lệ.“
Thủ tướng liên bang (Kanzler)
Điều 63 [Bầu cử
Thù Tướng Liên Bang] "Thủ
tướng liên bang được Hạ Viện bầu không cần thảo luận, theo lời yêu cầu của Tổng Thống liên bang „
Điều 67 [Phiếu bất tín nhiệm ] "Phiếu bất tín nhiệm Hạ Viện có thể tuyên bố bất
tín nhiệm Thủ Tướng liên bang bằng cách bầu người kế nhiệm với
đa số phiếu thành viên Hạ Viện và thỉnh cầu Tổng Thống sa thải Thủ
Tướng“.
Theo Hiến Pháp,Tổng thống liên bang không có nhiều
quyền hành.Tổng thống liên bang là một thiết chế đại diện, không được nhân dân
bầu trực tiếp mà được bầu thông qua Hội nghị liên bang (Bundesversammlung.)
Thủ tướng thực tế là người lãnh đạo chính
trị đất nước. Nhưng Thủ
tướng không thể cai trị một mình nên phải tìm cách dung hoà hay hợp
tác với các chính đảng khác để có đa số trong Quốc hội.
Một nền dân chủ hoạt động hữu hiệu không
thể thiếu các chính đảng. Vai trò chính đảng được hiến định rõ
trong Điều 21 [Đảng phái chính trị] "Các đảng chính trị tham gia vào sự hình thành của ý
chí chính trị của nhân dân. Chúng được tự do thành lập. Tổ chức nội bộ của
các đảng phải phù hợp với nguyên tắc dân chủ. Các đảng chính trị phải
chịu trách nhiệm công khai về tài sản, các nguồn lực và việc sử dụng các quỹ
của mình „.
Tư Pháp
Quyền lực Tư pháp được trao cho các Thẩm
phán.Quyền lực đó được thực thi bởi Toà án Hiến pháp liên bang (
Bundesverfassungsgericht), các
toà án liên bang và toà án tiểu bang.
Toà án Hiến pháp liên bang
Tòa án Hiến
pháp liên bang là một thiết chế bảo vệ Hiến pháp và bảo vệ nền dân chủ
(wehrhafte Demokratie) ở Đức. Tầm quan trọng đặc biệt của Tòa án Hiến pháp Liên
bang được thể hiện trong điều 31 Luật Tòa án Hiến pháp Liên bang:“
Các phán quyết của Tòa án Hiến pháp Liên bang là bắt buộc đối với các cơ quan
hiến pháp của liên bang và tiểu bang cũng như đối với tất cả các tòa án và cơ
quan nhà nước“.
Tòa án hiến pháp liên bang có hai chức năng :
Chức năng thứ nhất, Tòa án hiến pháp liên bang là một cơ quan có chức năng
xét xử như các Tòa án khác (Theo các Điều 92, 93, 94, 97 Luật cơ bản ). Điều
92 qui định: “Quyền xét xử được trao cho thẩm phán”. Điều này có
nghĩa rằng ở Đức, thẩm phán luôn nhận được sự tin tưởng tuyệt đối và cũng nhận
lấy trách nhiệm to lớn trước nhà nước và xã hội. Qui định này được bổ sung bởi Điều
97 “Khi xét xử, thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo luật”.
Chức năng thứ hai, theo Điều 1 Khoản 1 Luật toà án Hiến pháp liên bang, Tòa án hiến pháp liên bang là một thiết chế hiến định (Verfassungsorgan) giống như các thiết chế khác ở liên bang như Hạ viện, Thượng viện, Tổng thống liên bang và Chính phủ liên bang.
Hai chức năng này tạo nên vị trí độc lập của Tòa án hiến pháp liên bang trong hoạt động xét xử.
Chức năng thứ hai, theo Điều 1 Khoản 1 Luật toà án Hiến pháp liên bang, Tòa án hiến pháp liên bang là một thiết chế hiến định (Verfassungsorgan) giống như các thiết chế khác ở liên bang như Hạ viện, Thượng viện, Tổng thống liên bang và Chính phủ liên bang.
Hai chức năng này tạo nên vị trí độc lập của Tòa án hiến pháp liên bang trong hoạt động xét xử.
Quốc gia cởi mở
Hiến pháp Đức dự kiến định hướng nhà nước cởi mở cho phép Liên
bang chuyển giao thẩm quyền cho các tổ chức xuyên quốc gia hay quốc tế
như Liên minh Âu châu EU và Minh ước bắc đại tây dương NATO hay Toà án
quốc tế.
Nhờ vậy
Cộng hoà liên bang Đức đã nhanh chóng hội nhập trở lại Cộng đồng các
quốc gia dân chủ và văn minh. Nay Cộng hòa liên bang Đức là một quốc gia có
ảnh hưởng rất lớn ở châu Âu, là đối tác hấp dẫn trên phạm vi toàn cầu.
Nước Đức là
một thành viên sáng lập Liên minh châu Âu (EU) và là nước đông dân nhất trong
khối. Cùng với 17 thành viên EU khác, Đức xây dựng Khu vực đồng Euro, một liên
minh tiền tệ. Đức còn là thành viên của UNO (Liên hiệp quốc), của OECD (Tổ chức
hợp tác kinh tế và phát triển), của NATO (Khối quân sự Bắc Đại Tây Dương), của
tổ chức G7 (Bảy nước kinh tế hàng đầu thế giới gồm Mỹ, Canada, Nhật, Đức, Anh,
Pháp, Ý) và tổ chức G20 (Hai mươi nước công nghiệp phát triển của thế giới).
Thay lời kết
-Các quyền cơ bản trong Hiến pháp bao gổm nhân
quyền và dân quyền là những quyền có thực chất và sức mạnh thi
hành.
-Các định hướng cơ bản cùa Hiến pháp đã góp
phần kiến tạo một quốc gia thực sự dân chủ, pháp trị và xã hội
-Toà án Hiến Pháp có uy quyền đảm bảo sự thực
thi luật pháp và tính độc lập của toà án
Luật cơ bản của CHLB Đức đến nay đã trải qua lịch
sử 70 năm (1949 - 2019) đã góp phần
xây dựng Đức từ hoang tàn đổ nát sau chiến tranh và thảm họa độc
tài trở thảnh một quôc gia hiến trị dân chủ ổn định và tân
tiến nên Luật cơ bản được nhân dân Đức chấp nhận là bản Hiến pháp
tốt nhất từ trước đến nay dù không thông qua trưng cầu dân ý.Hơn nưã Luật cơ bản hiện nay được nhìn nhận là một trong
những bản Hiến Pháp có nhiều giá trị
trên thế giới, xứng đáng là mẫu hình rất đáng tham khảo đối với nhiều
quốc gia muốn hướng đến dân chủ, pháp trị và hiến trị.
Vũ Ngọc Yên