Bộ máy lãnh đạo Việt Nam có đọc sách không? Câu hỏi đơn giản này là một “bí
mật chính trường” Việt Nam. Dù tỷ lệ tiến sĩ trong nội các đương nhiệm Việt Nam
là khá cao (48,1%) nhưng không ai biết họ có đọc sách không và họ đọc sách gì.
Lãnh đạo không chỉ cần ban tham mưu. Lãnh đạo cũng cần sách vì sách không chỉ
ảnh hưởng tư cách lãnh đạo mà còn đóng góp việc ra các quyết sách quốc gia.
Thư viện cá nhân của Tổng thống Mỹ John Adams có hơn 3.000 đầu sách; trong
khi đó, bộ sưu tập sách của Thomas Jefferson đã khiến ông… đổ nợ và sau đó trở
thành một trong những bộ sách chủ lực của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ. Theodore
Roosevelt đáng nể không kém. Ông có thể đọc nhiều cuốn trong một ngày và còn
chấp bút viết hơn chục tác phẩm với nhiều chủ đề. Đọc sách không chỉ là thú
vui. Nó còn đóng góp vào tư duy xây dựng chính sách. Harry Truman là trường hợp
điển hình. Bù lại khiếm khuyết chưa tốt nghiệp đại học của mình, Truman đọc rất
nhiều sách, đặc biệt lịch sử và tiểu sử. Trên Washington Post, tác giả Tevi
Troy cho biết, việc ủng hộ lập quốc Israel của Truman có ảnh hưởng từ kiến thức
sách vở của ông, trong đó có bộ sử Great Men and Famous Women do Charles F.
Horne biên tập.
Sách cũng đóng vai trò quan trọng trong những năm tháng Tòa Bạch Ốc của
John F. Kennedy. Thậm chí một bài điểm sách cũng có thể tạo ảnh hưởng. Sau khi
được Walter Heller (chủ tịch Hội đồng cố vấn kinh tế) cho xem bài điểm sách của
Dwight MacDonald đăng trên tờ New Yorker bình luận về quyển The Other America
của Michael Harrington với nội dung lược ghi tình trạng đói nghèo của nước Mỹ,
Tổng thống Kennedy đã yêu cầu xem xét lại vấn đề này và lập kế hoạch cho chương
trình xóa nghèo toàn quốc. Ronald Reagan cũng là người mê sách. Ông là tổng
thống đầu tiên trích dẫn có chủ ý từ tác phẩm của các học giả có tầm ảnh hưởng.
Free To Choose của Milton Friedman và Wealth and Poverty của George Gilder đã
trở thành một phần trong nghị sự chính sách kinh tế của ông.
Hồi xảy ra cuộc khủng hoảng chính trị Balkans, Bill Clinton đọc Balkan
Ghosts của Robert Kaplan. George W. Bush rất thích đọc sách. Có lần ông cùng cố
vấn Karl Rove thi nhau xem ai đọc nhiều hơn trong một năm. Sách đã định hình
phần nào cái nhìn và chính sách của Bush đối với thế giới, chẳng hạn quyển The
Case for Democracy của Natan Sharansky hoặc Supreme Command của Eliot A. Cohen.
Bush không chỉ đọc. Ông còn thường xuyên tiếp xúc trực tiếp tác giả mà ông yêu
thích. Không lâu sau khi tái đắc cử, Bush đã gặp Natan Sharansky trong Phòng
Bầu dục để thảo luận về dân chủ và con đường phát triển dân chủ trên thế giới.
Winston Churchill, Margaret Thatcher, Lý Quang Diệu, Barack Obama, Angela
Merkel… đều là những người đọc nhiều và chịu ảnh hưởng ít nhiều từ những gì họ
đọc.
Trở lại với Việt Nam, giới lãnh đạo nước nhà có đọc sách không? Khi phát
biểu “tình hình thế giới ngày càng phức tạp” thì giới lãnh đạo có đọc thêm
nguồn tham khảo nào khác ngoài các báo cáo thuần túy? Các đối sách liên quan
biển Đông chỉ dựa vào phân tích sự kiện hay có bổ sung việc tham khảo nguồn từ
vô số quyển sách viết về biển Đông của giới nghiên cứu quốc tế tung ra ào ạt
vài năm qua? Truyền thông trong nước gần như không bao giờ cho biết giới lãnh
đạo chóp bu đọc sách gì. Hình ảnh thường thấy là lãnh đạo đi trồng cây hơn là
cầm quyển sách. Nội các đương nhiệm có 13/27 người có bằng tiến sĩ (Phó Thủ
tướng Vương Đình Huệ; Bộ trưởng Công an Tô Lâm; Bộ trưởng-Chủ nhiệm Văn phòng
Chính phủ Mai Tiến Dũng; Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn
Xuân Cường; Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến; Bộ trưởng Công thương Trần Tuấn
Anh; Bộ trưởng Giáo dục Phùng Xuân Nhạ; Bộ trưởng Văn hóa-Thể thao-Du lịch
Nguyễn Ngọc Thiện…) nhưng ai trong các vị này đọc sách nhiều hay không và đọc
gì thì chẳng ai biết. Giá mà Bí thư TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân cầm một quyển sách
tiếng Anh, chẳng hạn tác phẩm kinh điển thời thượng Why Nations Fail, để “khoe”
với bàn dân thiên hạ thì có lẽ hay gấp nhiều lần việc ông “xổ” tiếng Anh.
Ngày 24-2-2014, Nguyễn Tấn Dũng, với tư cách thủ tướng, ban hành Quyết định
số 284/QĐ-TTG chọn ngày 21-4 hàng năm là Ngày Sách Việt Nam. Tuy nhiên, cá nhân
ông Dũng có đọc sách không? Có thể mỗi ngày giới lãnh đạo Việt Nam vẫn đọc
sách. Khả năng này không nên loại trừ. Tạm tin như thế. Đọc sách, với giới lãnh
đạo nói chung, rõ ràng ít nhiều ảnh hưởng đến việc định hình chính sách, việc
hình thành nên một “chính phủ kiến tạo”, việc xây dựng một quốc gia “dân thịnh,
nước cường” - nếu đọc đúng và đọc đủ.
Trong diễn văn tạm biệt ngày 9-8-1974, Tổng thống Richard Nixon nói: “Tôi
không phải là người có ăn có học nhưng tôi đọc rất nhiều (“I am not educated,
but I do read books”). Giới chức Việt Nam có rất nhiều người có ăn có học nhưng
đọc rất ít? Điều này đúng hay sai khó có thể xác quyết mà chỉ có thể “phỏng
đoán” từ thực tế. Dù không có nghiên cứu nào xác chứng cho mối “tương quan”
giữa việc thiếu đọc sách với các phát biểu linh tinh nhưng thực tế khiến người
ta không khỏi không nghi ngờ về trình độ đọc của giới quan chức nước nhà, khi
ngày qua ngày, năm qua năm, người dân liên tục nghe những phát biểu rất “độc
đáo”, tạo ra một hiệu ứng xã hội (đối với người dân)
“tôi-nói-rồi; họ-chỉ-có-thế”.
Dĩ nhiên đọc sách hay không thì vẫn có thể cai trị nhưng muốn giành được sự
kính trọng và niềm tin người dân thì lại là việc khác. Không đọc sách vẫn có
thể “điều hành đất nước” nhưng đất nước có phát triển hay không là một việc
khác nữa. Những điều này có lẽ có cả ngàn quyển sách viết đến rồi.