Tác giả: David Hume Kennerly, nhiếp ảnh gia của Tổng thống Mỹ Gerald Ford
Ngô Bắc (biên dịch)David Hume Kennerly |
David Hume
Kennerly là một nhiếp ảnh gia, một nhà báo Mỹ, từng giành giải Pulitzer
năm 1972 cho những bức ảnh chụp về chiến tranh Việt Nam, Campuchia, về người tị nạn Đông Pakistan… Là nhiếp ảnh gia riêng của Tổng thống Mỹ Gerald Ford, Kennerly đã có cơ hội chứng kiến và ghi lại những khoảnh khắc lịch sử trong chuỗi ngày cuối cùng của Mỹ ở Việt Nam.
Tâm trạng chán nản, thất vọng, lo âu là điểm chung
không thể giấu diếm hiện rõ trên nét mặt những nhân vật quyền lực của chính quyền Mỹ thời bấy giờ, đã được ghi lại qua những bức ảnh tư liệu quý giá vào đúng lúc kết thúc cuộc chiến tranh dai dẳng, đẫm máu ở Việt Nam.
Lời tự sự của nhiếp ảnh gia David Hume Kennerly:
“Tôi đã có một chỗ ngồi hàng đầu cho hồi kết cuộc của cuộc chiến tranh Việt Nam – một cuộc chiến mà tôi đã trải qua hơn hai năm trong đời mình để tường thuật tại chỗ cuộc giao tranh.
Câu chuyện Việt Nam của tôi bắt đầu hồi đầu năm 1971, khi hãng thông tấn United Press International chỉ định tôi sang văn phòng tại Sài Gòn để thay thế nhiếp ảnh gia Kent Potter, người sắp được luân chuyển. Anh ta không hề có được cơ may đó. Vào tháng 2-1971, Potter và ba nhiếp ảnh gia khác đã gặp nạn khi máy bay trực thăng của họ bị bắn rơi tại Lào trong
cuộc hành quân Lam Sơn 719. Larry Burrows của tờ Life, Henri Huet của hãng AP,
và Keisaburo Shimamoto của tờ Newsweek nằm trong số những người tử nạn. Tôi không quen biết bất kỳ ai trong số các nhiếp ảnh gia hàng đầu đó, nhưng Burrows từng là một anh hùng, và các bức ảnh của ông đã
truyền cảm hứng khiến tôi ước muốn được tường thuật về cuộc chiến. Một ít tuần sau đó, tôi đã ở trên một phi cơ bay đến Sài Gòn.
Tôi đã trải qua hơn hai năm để chụp ảnh cuộc giao chiến tại Đông Dương, và vào
năm 1972, tôi đã được trao giải thưởng Pulitzer cho công việc của mình tại Việt Nam, Campuchia và Ấn Độ, nơi tôi đã chụp ảnh dân tỵ nạn chạy trốn qua biên giới từ Đông Pakistan.
Việt Nam đã trở thành một phần trong ADN của tôi; mọi điều xảy ra cho tôi kể từ khi đó đã được định hình. Tôi ở tuổi 24, và năm đầu tiên với tư cách một nhiếp ảnh gia mặt trận, có quá nhiều lần suýt chết, tôi thực sự không hề nghĩ rằng mình còn sống được tới tuổi 25. Khi kỷ niệm kỳ sinh nhật đó tại Sài Gòn, tôi cảm thấy mỗi năm sau đó là một bổng lộc trời cho. Cho đến nay, phần lộc trời đó đã được cộng thêm tới 43 năm!
Tôi đã cố gắng tận dụng các năm tháng đó cho thật xứng đáng.
Tôi đã quay
trở lại nước Mỹ hồi giữa 1973 để làm việc cho tờ tạp chí TIME. Một trong những nhiệm vụ ngay từ đầu của tôi là vụ
xì-căng-đan Watergate, và tôi cũng được chỉ định chụp ảnh vị lãnh đạo khối thiểu số tại Hạ Viện Gerald R. Ford sau khi Phó Tổng Thống SpiroAgnew từ chức vào mùa thu năm
đó. Một bức ảnh mà tôi đã chụp ông Ford
được in trên
trang bìa của tờ TIME khi Tổng Thống Nixon loan báo rằng ông Ford sẽ thay thế Agnew làm tân Phó Tổng thống. Tờ TIME sau đó cử tôi phụ trách đưa tin toàn thời gian về ông Ford. Khi Tổng Thống Nixon từ chức, và ông Ford lên thay thế, ông đã yêu cầu tôi trở thành nhiếp ảnh gia chính của ông. Đi
cùng với công việc đó là sự tiếp cận hoàn
toàn, không chỉ với Tổng thống và gia
đình, mà còn với mọi sự việc diễn ra trong hậu trường. Sự kiện này quả là một niềm vinh dự, tạo sự phấn khích cuồng nhiệt và là một trong những sự tưởng thưởng lớn nhất về mặt cá nhân
và nghề nghiệp trong cuộc đời tôi.
Vào ngày
3-3-1975, sáu tháng sau khi khởi đầu nhiệm kỳ Tổng thống của ông Ford, Nam Việt Nam đã bắt đầu tan rã khi Quân Đội miền Bắc tấn công vào
thành phố cao nguyên
miền trung
Buôn Mê Thuột.
Sau vài ngày giao tranh dữ dội gây ra hàng nghìn tổn thất nhân mạng, thành phố then chốt đó rơi vào tay quân đội miền Bắc Việt Nam. Đây
là bước khởi đầu cho sự kết liễu của chính quyền Nam Việt Nam.
Cuộc sống trước đây của tôi như một kẻ chụp ảnh chiến tranh đối nghịch với công việc mới nhất của tôi với tư cách nhiếp ảnh gia của Tổng thống. Tôi lặn sâu vào bên trong Nhà Trắng với tư cách nhiếp ảnh gia của Tổng thống, và được trao cho một cơ hội độc đáo vô song để nhìn thấy một cuộc chiến tranh nổ tung từ các sảnh đường của quyền lực. Sự tiếp cận đặc biệt này cũng đã dẫn đến một cuộc du hành bí mật đến Việt Nam với một sứ mệnh đặc biệt cho Tổng thổng Ford – và sau đó trở lại Nhà Trắng chứng kiến hồi kết cuộc của vở kịch Việt Nam.
Những ngày cuối cùng của tháng 4-1975 là những ngày khốn khổ cá nhân khi màn cuối cùng của bi kịch Việt Nam mở ra. Tôi đã không ngủ, và đã tận lực để bảo đảm rằng tôi đã
chụp ảnh mọi khoảnh khắc mà tôi có thể chụp được của chuỗi ngày chung cuộc căng thẳng này. Cùng lúc với việc có được điều kiện độc đáo khi ghi nhận các biến cố được khai mở ra, tôi cùng bị vắt cạn về mặt xúc cảm bởi các tình huống. Trong suốt bản thân cuộc chiến, tôi đã lướt qua sự đau đớn của mình để thu thập chứng liệu của câu chuyện, và tôi
đã làm y như thế trong suốt những ngày cuối cùng đó. Tôi cũng hiểu biết rằng chỉ một nhóm nhỏ những người với quyền hành khổng lồ đã đưa ra các quyết định đình hình đời sống của chúng ta. Họ là những người đã khởi sự và kết thúc các
cuộc chiến tranh. Từng là một người chỉ luôn đứng bên ngoài, thật sững sờ khi nhìn
thấy tiến trình đó chuyển động ra sao.
Mới chỉ vài năm trước đây, tôi đã tận lực với một động lực muốn thu thập chứng liệu các biến cố từ đầu mút phía bên kia – và sẽ ở hàng đầu khi hành động diễn ra. Hay tôi đã nghĩ như thế. Không lâu sau đó, tôi nhận thấy mình đang
ở tâm điểm của một hoạt động kiểu khác –
quan sát và ghi nhận sự đau đớn của những quyết định về việc sống, chết và tương lai của các dân tộc lần lượt được một vị Tổng thống đưa ra cho đến khi không còn quyết định nào nữa để đưa ra. Và khi đó, cuộc chiến tranh Việt Nam đã trôi qua.
Đây là sự tường thuật và các
hình ảnh của tôi về những ngày cuối cùng của Mỹ ở Việt Nam và sự sụp đổ của Sài Gòn. Lời trích dẫn trực tiếp từ những người tham dự được rút ra từ các biên bản được giải mật các phiên họp của Hội đồng An ninh Quốc Gia, Bản ghi nhớ các cuộc đàm thoại, các phiên họp của Nội Các Chính
Phủ, các buổi họp báo của Tòa Bạch Ốc, quyển sách của Tổng Thống Ford,
nhan đề A Time To
Heal, quyển sách của Donald Rumfeld, Known and Unknown, và quyển tự thuật của chính tôi, Shooter.”