Nguyễn Đình Cống
Ngày 12/5/2019 Báo
Điện tử ĐCSVN đăng bài Tự hào bản lĩnh của đội ngũ trí thức Việt Nam chân
chính, tác giả là TS Hà Sơn Thái- Nguyễn Văn Minh. Tôi
thấy cần nêu vài ý phản biện.
1-Bài
báo trình bày các ý, tóm tắt như sau :
+ Vượt
lên những thăng trầm, một lòng vì nước vì dân. Hỏi thế nào là trí thức chân
chính. Bài báo nêu tấm gương trong lịch sử như Nguyễn Trải, Lê Quý Đôn, Nguyễn
Đình Chiểu, Huỳnh Thúc Kháng ( không
nhắc đến Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh
Khiêm)
+ Coi trọng trí thức nào. Bài báo dẫn lời Hồ Chí Minh
: Coi trọng trí thức đi theo cách mạng, phục vụ nhân dân. Không coi trọng bọn
trí thức theo giặc, vì bơ sữa mà quên tổ quốc, bị các thế lực thù địch lôi kéo.
+ Sáng ngời bản lĩnh trí thức chân chính. Đầu
tiên bài báo viết : Đáp lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, nhiều trí
thức lớn đã một lòng, một dạ theo Đảng, theo Bác cống hiến, hy sinh cho cách
mạng, tiêu biểu như cụ Huỳnh Thúc Kháng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp; Thiếu tướng,
Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa…. Tiếp theo trình bày về
công lao của Trần Đại Nghĩa và Nguyễn Mạnh Tường.
Phần cuối bài báo nêu ra
hiện tượng thật đáng buồn khi có một số trí thức ngộ nhận mục tiêu lý tưởng, mơ
hồ về chính trị, bị kẻ xấu kích động, lôi kéo, lợi dung, phủ nhận chủ nghĩa Mác Lê, nói xấu Đảng, xúc
phạm lãnh tụ….
2- Vài lời phản biện
Theo định nghĩa thông
thường, trí thức là người chuyên làm việc lao động trí óc và có tri thức chuyên
môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp
của mình. Tôi chưa đọc thấy định nghĩa “ trí thức chân chính” trong tự điển
mà chỉ có thể ghép định nghĩa chân chính
vào với trí thức. Chân chính là hoàn toàn xứng với tên gọi (tốt đẹp), là thật
sự đúng như vậy, không sai.
Trong những trao đổi trên
báo chí có ý kiến cho rằng, để được xứng đáng với tên gọi, người trí thức không
những làm tôt công việc lao động trí óc của mình mà còn có đóng góp vào hoạt
động tiến bộ của xã hội, có những phát hiện hoặc phản biện về những điều bất
cập, có khả năng độc lập tư duy và làm việc, có đức tính trung thực.
Về vai trò của trí thức, có 2
quan điểm khác nhau.
Quan điểm chung của thế giới
: Tầng lớp trí thức là một trong 3 lực lượng tạo nên động lực tiến bộ xã hôi
(công chức nhà nước, tầng lớp trí thức, đội ngũ doanh nhân)
Quan điểm của các ĐCS : trí
thức là lực lượng trong khối liên minh công nông.
Ở VN hiện nay có ý kiến cho
rằng cần phân biệt trí thức của Đảng và trí thức của Dân. Trí thức của Đảng cần
thể hiện lòng trung thành vô hạn với chủ nghĩa Mác Lê, và lý tưởng cộng sản
(thực tâm hoặc đóng kịch cũng được). Trí thức của Dân không có lòng trung thành
ấy.và bị Đảng qui kết là mơ hồ về chính trị, bị kẻ xấu lôi kéo.
Phải chăng vì lòng trung
thành mà Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm không được xem là trí thức chân chính (
vì cáo quan để phản đối triều đình).
Tôi đã tìm hiểu các trí thức
hiện tại, bị cho là ngộ nhận mục tiêu lý tưởng Họ rất đông, với các đại
diện như Hoàng Minh Chính, Trần Độ, Vũ Đình Huỳnh, Hà Sĩ Phu, Tương Lai, Tống Văn
Công, Lê Hiếu Đằng, Nguyễn Khắc Mai, Chu Hảo, Nguyên Ngọc v.v…Những người đó không hề vướng một chút
nào vào những tội lỗi hoặc thói xấu bị Hồ Chí Minh và Đảng CS lên án như : theo
giặc, vì bơ sữa mà quên Tổ quốc, bị các thế lực thù địch lôi kéo, mơ hồ về
chính trị. Họ mới thực sự là trí thức chân chính của Dân. Họ có trí tuệ và dũng
khí để vạch ra những độc hại của chủ nghĩa Mac Lê, để phát hiện và phản biện
những sai lầm trong các nghị quyết của Đảng. Họ phê phán một số chủ trương và
việc làm của Đảng, nhưng đó là nói ra sự thật. Chỉ là Đảng rất muốn che giấu
những sự thật ấy. Che giấu không được, bị vach ra lại lu loa người ta nói xấu.
Ca ngợi GS VIện sĩ Trần Đại
Nghĩa là đúng, nhưng ca ngợi LS Nguyễn Mạnh Tường làm tôi hơi khó hiểu. LS
Tường đúng là đã có nhiều đóng góp to lớn, hiệu quả cho một nước VNDCCH non
trẻ. Thế nhưng ông đã bị ĐCS phá nát cuộc đời chỉ vì ông muốn làm đúng vai trò
một trí thức chân chính, không chịu khom lưng quỳ gối để nịnh bợ, mà dám phản
biện đường lối sai lầm của Đảng. Từ năm 1956 đến 1989 ông bị đối xử tàn tệ đến
mức cả gia đính suýt chết đói. Ông đã viết và xuất bản ở Pháp cuốn hồi ký “ Một
kẻ bị loại bỏ “ ( Un Excommunié ). Sau năm 1989 ông mới được bạn bè và học trò
cũ cứu giúp, trở lại làm người bình thường. Ông mất năm 1997 ( 88 tuổi).
Nguyễn Mạnh Tường đúng là
một trí thức tài ba và chân chính, nhưng đã bị ĐCS, bị chế độ xem là thuộc thế
lực thù địch trong nhiều năm. Bài báo viết : “ Sau
này, vì nhiều lý do, Nguyễn Mạnh Tường phải chịu nhiều thiệt thòi nhưng ông vẫn
kiên định bản lĩnh một trí thức yêu nước chân chính”
Nêu mập mờ “ vì
nhiều lý do” mà không dám công nhận lý do chính là ĐCS không bao giờ chấp nhận người phản biện có
tính phê phán. Về lĩnh vực này ĐCS thù hận mọi trí thức chân chính.
Những Nguyễn
Hữu Đang, Phan Khôi, Trương Tửu, Trần
Độ, Trần Bạch Đằng, Tống Văn Công, Lê Công Định, Phạm Đoan Trang và hàng trăm,
hàng ngàn trí thức khác vì muốn làm
người chân chính mà phê phán Mác Lê, mà phản biện chủ trương, chính sách của
ĐCS. Họ biết rõ, làm các việc ấy sẽ bị ĐCS, bị chính quyền thù oán, vu cáo, hãm
hại. Nhưng họ là loại người mà giàu sang không thể quyến rủ, nghèo hèn không
thể chuyển lay, vũ lực không thể khuất phục ( Phú quý bất năng dâm, bần tiện
bất năng di, uy vũ bất năng khuất). Họ phải nói cho toàn dân biết rằng Chủ
nghĩa Mác Lê và một số chính sách chủ trương của ĐCSVN, trong khi đem lại quyền lợi to lớn cho các
nhóm lợi ích của Đảng, thì đã làm hại cho đất nước, cho dân tộc rất nhiều. Bảo
rằng họ ngộ nhân, họ mơ hồ, họ bị lôi kéo, họ chạy theo bả vinh hoa, họ quên Tổ
quốc… thì đó là những lời vu báo bỉ ối,
là suy những xâu xa của bụng ta ra bụng
người..
Nếu nhìn vào
những người có bằng cấp cao trong các cơ sở của ĐCSVN và xem họ là đội ngũ trí
thức chân chính thì đã nhầm to. Phần lớn trong số họ là loại hữu danh vô thực.
Sự trung thành với ý thức hệ đã làm thui chột nhiều đức tính cần có của giới
tinh hoa. Trí thức chân chính của VN phần lớn ra nước
ngoài làm việc, một số bị chính quyền CS tù đáy hoặc vô hiệu hoa, số còn lại
hoạt động đơn lẻ. Họ chỉ mới là những cá nhân trí thức, họ chưa tập hợp lại
được để thành đội ngũ, thành tầng lớp trí thức của dân tộc..
Không biết tác giả bài báo tự hào bản lĩnh của đội ngũ
trí thức Việt nam chân chính là dựa vào đội ngũ trí thức nào.
Hiện
nay, thật đáng buồn khi vẫn còn một số ít trí thức đang ngộ nhận mục tiêu lý
tưởng. Họ tự cho mình là cấp tiến, yêu nước, thương dân nhưng lại bị kẻ xấu
kích động, lôi kéo, “lợi dụng”. Họ nói, viết và làm những điều có hại cho lợi
ích cộng đồng, lợi ích dân tộc. Một bộ phận mơ hồ về chính trị, giảm sút niềm
tin con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; cực đoan chính
trị; phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nói xấu Đảng, chống
đối chế độ, xúc phạm đến lãnh tụ, anh hùng dân tộc...
Đối với
mỗi con người, bản lĩnh là tố chất cần thiết quyết định sự vững vàng, tính kiên
định, sự độc lập chủ động trong hành động trước mọi hoàn cảnh, nhất là trước
những khó khăn, thử thách của cuộc sống. Đó là một bản chất sống có tính tổng
hợp của con người xã hội, tạo nên hệ “miễn dịch” trước những biến cố của thời
đại và của bản thân; tạo nên cách ứng xử “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, để người
trí thức luôn giữ được chân giá trị của mình. Ôn cố để tri tân, mỗi trí thức
cần nhìn nhận và xây dựng cho mình bản lĩnh trong dòng chảy thời cuộc bằng tri
thức và kinh nghiệm, trải nghiệm và cả sự nhìn nhận từ những tấm gương trí thức
trong lịch sử dân tộc/.
Tự hào bản lĩnh của đội ngũ
trí thức Việt Nam chân chính
( báo
Điện tử ĐCSVN, ngày 12/5/2019)
TS Hà Sơn Thái - Nguyễn Văn Minh
(ĐCSVN) - Thực trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên,
trong đó có một số trí thức có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đang
đặt ra đòi hỏi phải rèn luyện, xây dựng bản lĩnh vững vàng cho đội ngũ trí
thức, trước hết là sự vững vàng về bản lĩnh chính trị, kiên định mục tiêu đường
lối Độc lập dân tộc và CNXH...
Vượt lên những thăng trầm, một lòng vì nước vì dân
Thời
gian gần đây, nhân câu chuyện một vài trí thức - đảng viên có dấu hiệu suy
thoái, “tự diễn biến", "tự chuyển hóa”, một số người đã đưa ra vấn đề
“đâu là trí thức chân chính” để lập lờ khái niệm và tự nhận là trí thức chân
chính, vì họ “đứng về phía nhân dân”, “vì dân vì nước”. Tuy nhiên, họ quên mất
một điều, nếu nhìn từ những tấm gương lịch sử, các danh nhân - trí thức yêu
nước chưa bao giờ xao nhãng bổn phận trách nhiệm của mình trước gia đình, xã
hội và đất nước. Vì lẽ đó, không bao giờ những kẻ cơ hội chính trị, “cõng rắn
cắn gà nhà” được coi là những kẻ sĩ - trí thức chân chính.
Nhìn
lại lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc ta có thể thấy, trong mỗi giai đoạn đều
có những tấm gương yêu nước, thương dân, kiên cường chống giặc ngoại xâm. Đó
chính là những bậc đại trí thức nổi tiếng như Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Nguyễn
Đình Chiểu, Huỳnh Thúc Kháng…
Nguyễn
Trãi, vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới là một số phận vinh quang
và nhiều cay đắng nhưng cũng là tấm gương về bản lĩnh người trí thức trước
những thăng trầm, biến cố của thời đại và của bản thân. Ông từng xót xa cho
thân phận người trí thức phong kiến: “Xưa nay người biết chữ thường lắm lo âu
và hoạn nạn. Ông già Tô Đông Pha nói thế và tôi cũng nói thế”. Tuy nhiên, vượt
lên những kỳ thị nhỏ nhen và cả những sai lầm, yêu ghét của triều đình, Nguyễn
Trãi luôn đau đáu những câu hỏi lớn: Làm gì đây để giúp ích cho nhân dân? Nhân
dân bao giờ có cuộc sống no ấm an vui? Những ưu hoạn của nhân dân ngày đêm thôi
thúc Nguyễn Trãi suy tư để tìm ra con đường đuổi giặc cứu nước. Ông đã đem hết
trí tuệ, tâm huyết, tài năng cùng Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn giành lại đất
nước. Ông quan niệm: “Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược. Có nhân, có trí, có anh
hùng” (Bảo kính cảnh giới số 132). Bằng hai câu thơ của ông vừa khái quát quy
luật của chủ nghĩa anh hùng, vừa nêu lên trách nhiệm, bản lĩnh của bậc trí
thức:
“Bui có
một lòng trung lẫn hiếu
Mài
chăng khuyết, nhuộm chăng đen”.
Trong
lịch sử dân tộc, Lê Quý Đôn không chỉ nổi danh là một nhà bác học uyên bác mà
còn là một vị quan đa tài, gần dân nhưng cũng không ít thăng trầm. Có lúc, ông
dâng sớ xin thiết lập pháp chế, vì thấy một số quan lại lúc bấy giờ "đã
quá lạm dụng quyền hành, giày xéo lên pháp luật", nhưng không được chúa
nghe, ông từng chán nản xin nghỉ hưu về quê “đóng cửa viết sách”. Tuy nhiên,
sau đó, được triều đình mời trở lại, ông lại tiếp tục cống hiến hết mình. Sau
này, ông nhiều lần được thăng, giáng chức nhưng tấm lòng vì dân, vì nước của
ông không thay đổi, nhạt phai. Lê Quý Đôn cho rằng, nếu người trí thức chỉ sống
vì miếng cơm manh áo thì quá lắm họ chỉ biết leo lên bậc thang cao nhất của
trật tự xã hội. Ông luôn lo âu trước cảnh khổ dân nghèo: “Xanh xanh dương liễu
nhớ quê nhà. Đêm lạnh tàn canh chẳng ngủ được” (Trụ sinh kế). Khác với những
nhà nho vốn xa rời nhân dân thoát ly thực tế Lê Quý Đôn luôn bám sát đời sống
xã hội cố gắng biết rộng, nghe nhiều; luôn suy nghĩ làm thế nào để giúp nước,
giúp dân.
Coi trọng trí thức nào?
Trí
thức là tầng lớp tinh hoa của xã hội, là lực lượng quan trọng của cách mạng và
nằm trong liên minh công - nông - trí thức nên Đảng, Nhà nước ta luôn đề cao,
tạo điều kiện tốt nhất để phát huy vai trò đội ngũ trí thức. Nhưng quan điểm
của Đảng, Nhà nước ta cũng rất rõ ràng khi đánh giá về những trí thức chân
chính. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Cố nhiên Đảng và Chính phủ
rất quý trọng trí thức. Nhưng bây giờ thử hỏi quý trọng trí thức nào? Quý trí
thức chịu khó, chịu khổ kháng chiến, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân như các
cụ, các anh chị em ở đây. Nhưng đối với bọn đội lốt trí thức vì bơ sữa mà quên
cả Tổ quốc, nhân dân, làm ô danh trí thức có nên coi trọng không? Đảng và Chính
phủ cố nhiên không coi trọng bọn đội lốt trí thức theo giặc, có tội với nhân
dân… Nước còn hay mất, dân tộc thịnh hay suy, Tổ quốc hưng hay vong không biết,
cứ an tâm đi làm nô lệ cho nó, chỉ biết “duy hữu độc thư cao”. Anh chị em trí
thức phải xét mình cho kỹ, để tẩy cho sạch nọc độc của thực dân và phong kiến.”
Như vậy,
ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng non trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhận ra và cảnh báo nguy cơ trí thức bị các thế lực thù địch lôi kéo, mua
chuộc. Người cũng cảnh báo những kẻ đội lốt trí thức, làm ô danh trí thức. Vì
thế, Người dặn dò đội ngũ trí thức: “Các bạn là bậc trí thức. Các bạn có cái
trách nhiệm nặng nề và vẻ vang, là làm gương cho dân trong mọi việc. Dân ta đã
đấu tranh một cách rất dũng cảm. Lẽ tất nhiên giới trí thức phải hy sinh đấu
tranh, dũng cảm hơn nữa, để làm gương cho nhân dân”.
Sáng ngời bản lĩnh trí thức chân chính
Đáp lời
kêu gọi đoàn kết toàn dân tộc và trọng dụng hiền tài của Hồ Chí Minh, nhiều trí
thức lớn đã một lòng, một dạ theo Đảng, theo Bác cống hiến, hy sinh cho cách
mạng, tiêu biểu như cụ Huỳnh Thúc Kháng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp; Thiếu tướng,
Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa…
Trong
đó, tấm gương Thiếu tướng, Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa, người được Bác Hồ
gọi là “đại trí thức” có thể coi là một biểu tượng sáng ngời về bản lĩnh, nhân
cách trí thức Việt Nam. Từ cậu học trò nghèo sang Pháp du học, ông vào học
ngành cầu-đường, rồi ngành hóa học, tại Đại học Sookbors (Pháp), trường nổi
tiếng thế giới. Ra trường, có thời gian ông sang Đức làm việc cho một hãng chế
tạo máy bay với mức lương 22 lạng vàng/tháng. Nhưng hưởng ứng lời kêu gọi của
Bác Hồ, ông quyết định từ bỏ chức vụ kỹ sư trưởng ở Hãng nghiên cứu chế tạo máy
bay Concord để về nước. Ngày 30/4/1975, khi nước nhà thống nhất, ông có ghi vào
cuốn sổ tay của mình: “Đã hoàn thành nhiệm vụ”. Đó là nhiệm vụ cứu nước, cứu
dân mà ông từ bỏ cuộc sống phồn hoa trên đất Pháp để theo Bác Hồ trở về Tổ
quốc. Lúc sinh thời Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa từng nói: “Bạn bè của tôi ở lại
bên Pháp, họ đều sung sướng, đầy đủ hơn tôi rất nhiều. Nhưng về khía cạnh phụng
sự Tổ quốc, họ chẳng có gì cả”.
Một trí
thức khác cũng rất nổi tiếng đã giữ được bản lĩnh đáng trân trọng của mình dù
cá nhân ông đã trải qua không ít thăng trầm, thiệt thòi. Đó Giáo sư, Luật sư
Nguyễn Mạnh Tường (1909 - 1997), một trong những người trí thức Việt Nam thông
minh siêu việt, một nhà sư phạm mẫu mực giàu tài năng. Năm 22 tuổi, là học sinh
Việt Nam du học trên nước Pháp, ông đã lập nên kỷ lục làm chấn động nước Pháp:
Trong một năm lấy luôn hai bằng Tiến sĩ Quốc gia Văn khoa và Luật khoa.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Luật sư Nguyễn Mạnh
Tường được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời tham gia Đoàn đại biểu Việt Nam dự Hội nghị
Đà Lạt nhằm ngăn chặn âm mưu tái chiếm thuộc địa của thực dân Pháp. Với tầm
kiến thức rộng lớn, năm 1952, ông tham gia vào các đoàn đại biểu của Chính phủ
kháng chiến dự Hội nghị Bảo vệ Hòa bình ở Bắc Kinh (Trung Quốc) và Đại hội Hòa
bình Thế giới ở Vienna (Áo). Sau đó, ông làm Trưởng đoàn Việt Nam tham dự Hội
nghị Luật gia Dân chủ Thế giới ở Bruxelles, Bỉ (1956). Lập luận và trí thức
uyên thâm của Nguyễn Mạnh Tường đã góp phần làm cho thế giới biết đến một Việt
Nam kháng chiến, kiên cường và trí tuệ... Ông còn tham gia đào tạo trí thức
phục vụ kháng chiến tại Trường dự bị đại học Liên khu IV tại Thanh Hóa, Phó
giám đốc (nay là Phó hiệu trưởng) Trường
Đại học Sư phạm Văn khoa (nay là Trường Đọc sư phạm Hà Nội) khi miền Bắc mới giải phóng. Trong bối cảnh bấy
giờ, người Pháp vẫn muốn lôi kéo ông Nguyễn Mạnh Tường. Sau này, vì nhiều lý
do, Nguyễn Mạnh Tường phải chịu nhiều thiệt thòi nhưng ông vẫn kiên định bản
lĩnh một trí thức yêu nước chân chính. Năm 1989, ông được học trò và người thân
mời trở lại thăm nước Pháp vào đúng lúc Đông Âu đang xảy ra biến cố. Phóng viên
Báo Le Monde đã phỏng vấn ông. Khi phóng viên đặt câu hỏi: Ngài thấy chủ nghĩa
cộng sản bây giờ thế nào? Ông đã trả lời: “Trước hết các ông đừng lẫn lộn chủ
nghĩa cộng sản, mà nhiều trí thức Pháp đã coi là hy vọng cuối cùng của loài
người, với những người đã thực hiện nó”. Khi được hỏi liệu Việt Nam có như Đông
Âu không, ông thẳng thắn: “Đảng Cộng sản Việt Nam cũng có những sai lầm, nhưng
không ai quên công lớn của Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành lại độc lập, thống
nhất, giải phóng dân tộc”. Những phát ngôn đó càng khiến nhiều người cảm phục
bản lĩnh, nhân cách của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường.
Câu
chuyện về bản lĩnh của đội ngũ trí thức Việt Nam một lần nữa cho chúng ta thêm
bài học từ những tấm gương. Khi người trí thức đặt hết tài năng và trí tuệ vào
vận mệnh và tiền đồ của Tổ quốc, vượt lên những thị phi và cơm áo đời thường,
quyết không để kẻ xấu lôi kéo thì họ chẳng những khẳng định được phẩm giá mà
còn luôn lan tỏa tiếng thơm. Đây là điểm khác biệt lớn nhất giữa người trí thức
chân chính với những kẻ cơ hội chính trị, nhân danh đổi mới để đi ngược lại lợi
ích của Tổ quốc và nhân dân.
Hiện
nay, thật đáng buồn khi vẫn còn một số ít trí thức đang ngộ nhận mục tiêu lý
tưởng. Họ tự cho mình là cấp tiến, yêu nước, thương dân nhưng lại bị kẻ xấu
kích động, lôi kéo, “lợi dụng”. Họ nói, viết và làm những điều có hại cho lợi
ích cộng đồng, lợi ích dân tộc. Một bộ phận mơ hồ về chính trị, giảm sút niềm
tin con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; cực đoan chính
trị; phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nói xấu Đảng, chống
đối chế độ, xúc phạm đến lãnh tụ, anh hùng dân tộc...
Đối với
mỗi con người, bản lĩnh là tố chất cần thiết quyết định sự vững vàng, tính kiên
định, sự độc lập chủ động trong hành động trước mọi hoàn cảnh, nhất là trước
những khó khăn, thử thách của cuộc sống. Đó là một bản chất sống có tính tổng
hợp của con người xã hội, tạo nên hệ “miễn dịch” trước những biến cố của thời
đại và của bản thân; tạo nên cách ứng xử “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, để người
trí thức luôn giữ được chân giá trị của mình. Ôn cố để tri tân, mỗi trí thức
cần nhìn nhận và xây dựng cho mình bản lĩnh trong dòng chảy thời cuộc bằng tri
thức và kinh nghiệm, trải nghiệm và cả sự nhìn nhận từ những tấm gương trí thức
trong lịch sử dân tộc/.
TS Hà Sơn Thái - Nguyễn Văn Minh