Nguyễn Quang A, DĐXHDS, Việt Nam
Phản kháng Thiên An Môn là một cách gọi ngắn gọn của một
phong trào xã hội toàn quốc kéo dài bảy tuần mà đã lan ra khắp Trung Hoa đại
lục trong năm 1989. “Vào ngày 17 tháng Tư, hai ngày sau khi Hồ Diệu Bang chết,
các sinh viên ở Bắc Kinh đã xuống đường. Trong bảy tuần, những cố gắng to lớn
của dân chủ hoá Trung Quốc đã trải qua một chu kỳ nhanh của sự huy động, sự
phân cực, sự đối đầu đẫm máu, và sự đàn áp” [Đới Tình-Dai Qing]. Nhìn lại các
cuộc Phản kháng Thiên An Môn sau 30 năm chúng ta có thể học một số bài học để
noi theo hay để tránh ở nơi khác. Trong bài này tôi thử lựa ra vài hồi phản
kháng và xem xét chúng dưới ánh sáng của “dân chủ hoá sôi động,” một khung khổ
được Donatella del Porta đề xướng gần đây, để hiểu kỹ hơn quá trình phản kháng
sinh viên năm 1989 và đặc biệt vì sao chúng đã thành công trong việc huy động
nhưng rốt cuộc đã thất bại dẫn đến vụ thảm sát 4 tháng Sáu. Bài này thử rút ra
vài bài học từ các cuộc phản kháng Thiên An Môn (và từ những sự huy động thành
công hay thất bại khác cho dân chủ kể cả những huy động ở Đài Loan) mà đã ảnh
hưởng đến việc hình thành một chiến lược trong năm 2013 cho dân chủ hoá ở Việt
Nam. Chiến lược được tóm tắt ở cuối bài này.
I.
MÔ TẢ
Tôi nghĩ là hữu ích để phân chia
các đấu thủ thành vài nhóm ở những mức trừu tượng hoá khác nhau và phân định
bảy tuần này thành vài pha theo các đấu thủ cụ thể.
Về phần các
đấu thủ, sự phân chia thô nhất (ở mức P0) là chia họ thành những người cai trị
và những người bị trị; một sự phân chia tinh tế hơn một chút (ở mức P1) gồm: a)
một mặt các sinh viên và trí thức không thống nhất thử giành sự ủng hộ của phần
còn lại dân chúng đại diện cho những người bị trị; và mặt khác những người cai
trị gồm b) một phái lãnh đạo theo đường lối mềm với Triệu Tử Dương đứng đầu; c)
một phái cứng rắn với Lí Bằng đứng đầu; và d) Đặng Tiểu Bình, người ra quyết
định cuối cùng, (và các Đảng viên lão thành khác) ở giữa mà sự ủng hộ của họ
các phái b) và c) cố gắng để giành được. Bởi vì Đặng Tiểu Bình là một nhà cải
cách thực sự về mặt kinh tế nhưng rất bảo thủ trong lĩnh vực chính trị, phái
nào kiếm được sự ủng hộ của ông sẽ thắng và phái kia thua. Đặng Tiểu Bình đã
luôn cứng rắn đối với các cuộc phản kháng sinh viên như được nhiều hành động
của ông trong quá khứ minh hoạ, kể cả thái độ gần đây nhất của ông đối với các
cuộc biểu tình sinh viên trong tháng Mười Hai 1986 mà đã đẩy nhanh quyết định
của ông để sa thải Hồ Diệu Bang vào ngày 4 tháng Giêng 1987.
Về phân định
thời gian, chúng tôi theo Đới Tình [Dai 1999] (bà đã phân quá trình thành 5 pha
từ quan điểm của các trí thức và sinh viên, các pha của chúng tôi là tương tự
nhưng bám sát những quyết định thật sự của những người cai trị mà những thông
tin đó từ Hồi ký của Triệu năm 2009 đã không có cho Đới mười năm trước 1999).
Việc phân định thời gian này lựa ra những sự kiện cho thấy một cách sống động
động học và các cơ chế mà [Donatella 2014] đã tổng hợp thành một khung khổ lý
luận từ những kinh nghiệm của Trung Quốc và các nước khác:
1. Pha đầu tiên, từ 17 tháng Tư đến chiều tối 23, trong tuần
đầu tiên khi Triệu Tử Dương, Tổng bí thư ĐCSTQ chịu trách nhiệm quản lý việc
sinh viên phản kháng. Vào ngày 19 tháng Tư, tờ Điểm tin Kinh tế Thế giới
(một tờ báo khai phóng ở Thượng Hải) và tạp chí Quan sát Mới đã cùng
nhau tổ chức một hội thảo chuyên đề về tưởng niệm Hồ Diệu Bang. Vào ngày 22
tháng Tư các sinh viên đã tổ chức lễ tưởng niệm riêng của họ cho Hồ Diệu Bang ở
quảng trường Thiên An Môn trong khi quốc tang chính thức đang diễn ra tại Đại
Lễ Đường. Ba sinh viên đã quỳ trên các bậc cửa lên Đại Lễ Đường dâng sớ đòi đối
thoại với chính phủ. Thái độ của các nhà chức trách đã kiềm chế chưa từng thấy.
2. Pha thứ hai, từ tối 23 tháng Tư, khi Triệu đi xe lửa hướng
tới Bắc Triều Tiên cho một cuộc viếng thăm nhà nước đã định trước từ 24 đến 29
tháng Tư, đến cuối ngày 29 tháng Tư khi Triệu quay lại Bắc Kinh. Vào chính tối
23 tháng Tư, Lí Tích Minh và Trần Huy Đồng của Thành Uỷ Bắc Kinh đã yêu cầu Vạn
Lí (chủ tịch Quốc hội và KHÔNG phải một uỷ viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị,
BTV), để triệu tập một cuộc họp BTV để nghe báo cáo của họ. Vạn Lí đã chuyển
yêu cầu của họ cho Lí Bằng, vì Lí Bằng đã tạm thời chịu trách nhiệm về các hoạt
động BTV trong khi Triệu ở nước ngoài. Ngay vào tối hôm sau, 24 tháng Tư, Lí
Bằng đã triệu tập một cuộc họp BTV. Cùng hôm đó tại Thượng Hải, Điểm tin
Kinh tế Thế giới đã đăng một phóng sự chi tiết về hội thảo ngày 19
tháng Tư của họ bất chấp cảnh cáo kiểm duyệt của Thành Uỷ Thượng Hải. Và vào
ngày 25 tháng Tư, Lí Bằng và Dương Thượng Côn đã báo cáo cho Đặng Tiểu Bình về
cuộc họp BTV, Đặng Tiểu Bình ngay lập tức đã đồng ý gán nhãn các cuộc biểu tình
sinh viên là “chống-Đảng, động loạn chống-xã hội chủ nghĩa” và đề xuất giải
quyết tình hình nhanh chóng. Phái cứng rắn đã kéo được Đặng Tiểu Bình về phía
họ. Lí Bằng đã phát tán các nhận xét của Đặng Tiểu Bình vào chính tối hôm đó
cho tất cả các cán bộ ở mọi mức và đã lệnh cho Nhân dân Nhật báo đăng
một bài xã luận cực kỳ cứng rắn trên số ngày 26 tháng Tư. Tại Thượng Hải, vào
cùng ngày 26 tháng Tư, Bí thư Thành uỷ Giang Trạch Dân đã sa thải Khâm Bổn Lập
tổng biên tập của Điểm tin Kinh tế Thế giới và đã đóng cửa tờ báo, gây
ra những cuộc phản kháng giữa các nhà báo khắp cả nước. Lí Bằng đã hy vọng rằng
xã luận Nhân dân Nhật báo sẽ đe doạ các sinh viên nhưng thay vào đó nó
đã khiến họ tức giận đến mức sẵn sàng xuống đường để bày tỏ ý kiến của họ bởi
vì họ đã được pha đầu tiên cổ vũ hết sức và được đưa tin toàn cầu. Cuộc biểu
tình ngày hôm sau, 27 tháng Tư, mười đến mười lăm ngàn sinh viên, và nhiều dân
cư hơn rất nhiều (hàng trăm ngàn người) đã xuống đường biểu tình. Bị bất ngờ,
Lí Bằng đã cảm thấy áp lực để yêu cầu Viên Mộc, người phát ngôn của Quốc Vụ
Viện, Hà Đông Xương, Viên Lập Bổn và Lục Vũ Trừng để tổ chức một cuộc đối
thoại với các đại diện sinh viên từ 16 đại học Bắc Kinh và các trí thức độc lập
vào ngày 29 tháng Tư.
3.
Pha thứ ba, từ 30
tháng Tư đến 17 tháng Năm. Sau khi quay về Bắc Kinh, Triệu Tử Dương đã cố gắng
tìm hiểu những gì đã xảy ra khi ông không ở Bắc Kinh và đã thử hết sức để quản
lý các cuộc phản kháng sinh viên. Vào ngày 1 tháng Năm, Triệu đã đề xuất tại
một cuộc họp Ban Thường Vụ Bộ Chính trị rằng Bộ Chính trị lệnh cho Uỷ Ban Kỷ
luật Trung ương và Bộ Giám sát mở một cuộc điều tra các thành viên gia đình ông
vì những cáo buộc tham nhũng nhằm đáp lại các đòi hỏi của sinh viên để chống
tham nhũng, chống ưu ái cho các quan chức. Vào ngày 3 tháng Năm Triệu đã thảo
luận với Vạn Lí, chủ tịch Uỷ ban Thường Vụ Quốc hội, về các cuộc biểu tình sinh
viên. Vạn đã hoàn toàn đồng ý với Triệu; ông cũng đã thử thuyết phục những
người khác để thay đổi giọng của xã luận 26 tháng Tư. Vào ngày 4 tháng Năm,
Triệu Tử Dương đã trình bày bài phát biểu của ông cho các đại biểu Ngân hàng
Phát triển Á châu kêu gọi giải quyết cuộc biểu tình sinh viên “trên cơ sở các
nguyên tắc dân chủ và luật.” Các sinh viên đã trở lại các lớp học của họ. Vào
ngày 6 tháng Năm, Triệu đã thảo luận với Hồ Khởi Lập (uỷ viên BTV) và Nhuế Hạnh
Văn (bí thư của Ban Bí thư TW), ông “đã đề xuất rằng cần chú ý khi soạn thảo
luật báo chí mới để nới lỏng những hạn chế về tường thuật tin tức, các bài xã luận,
và bình luận” theo những đòi hỏi của sinh viên cho quyền tự do báo chí. Và vào
ngày 9 tháng Năm “Hồ Khởi Lập đã tập hợp các nhận xét của Triệu thành một thông
báo được phân phát cho các tổ chức báo chí sau khi Triệu đã soát lại và chuẩn
y.” Vào ngày 10 tháng Năm, cuộc họp Bộ Chính trị đã quyết định rằng việc tổ
chức các cuộc thảo luận với mỗi nhóm dính líu đến các cuộc biểu tình sẽ là một
con đường lý tưởng để giải quyết các vấn đề của các sinh viên. Vào
ngày 12 tháng Năm “Hồ Khởi Lập và Nhuế Hạnh Văn tại một cuộc họp đã thông báo
cho các lãnh đạo của các tổ chức báo chí Bắc Kinh về sự đối thoại. Vào lúc đó,
hơn một ngàn người từ các tổ chức báo chí Bắc Kinh đã ký một kiến nghị và đã
xuống đường phản đối.” Do các nhà chức trách chấp nhận loại thái độ này, các
sinh viên ở tất cả các đại học ở Bắc Kinh đã chấp nhận để tuyên bố ngừng bãi
khoá. Trật tự xã hội về cơ bản đã được khôi phục. Vào ngày 13 tháng Năm, hai
ngày trước cuộc viếng thăm chính thức của Gorbachev và kế hoạch của các sinh
viên lợi dụng cơ hội để lại biểu tình, Triệu Tử Dương đã trình bày một bài phát
biểu để thuyết phục các sinh viên đừng “quấy rầy các cuộc đàm phán quốc tế của
nhà nước và gây tổn hại cho Thượng đỉnh Trung-Sô.” Các sinh
viên đã chẳng hề đáp lại lời khẩn cầu của Triệu, họ đã vào Quảng trường Thiên
An Môn để tổ chức một cuộc toạ kháng và một tuyệt thực, hàng trăm trong số họ
đã bắt đầu tuyệt thực. Cuộc chiếm Quảng trường đã bắt đầu. Các cố gắng của các
đồng minh của Triệu, Diêm Minh Phúc và Lí Thiết Ánh để thương lượng với các sinh
viên vào ngày 14 tháng Năm đã thất bại. Diêm thậm chí đã ra Quảng trường vào
ngày 16 tháng Năm nhằm thuyết phục các sinh viên chấm dứt tuyệt thực, nhưng
cũng đã thất bại.
Biểu tình đã không chỉ xảy ra ở Bắc Kinh, mà ở các thành
phố lớn khác nữa. Thí dụ, “ở Thành Đô, điểm ngoặt của phong trào đã đến
vào những giờ đầu của ngày 16 tháng Năm, khi hơn một ngàn cảnh sát đã ẩu đả với
khoảng hai trăm sinh viên, đánh chúng bằng gậy và dây lưng để thử dọn sạch
quảng trường... hành động này đã kích phong trào, thậm chí có được sự ủng hộ từ
các nhà chức trách đại học, những người trước đó đã khoá cổng trường để cản
sinh viên tham gia các cuộc biểu tình.” [Lim 2014, p. 184]
Về phần các sinh viên, được cổ vũ bởi những sự huy động của
vài tuần đầu tiên, các đòi hỏi của sinh viên đã leo thang, đề xuất đối thoại
với các quan chức, và hơn nữa, đòi truyền hình trực tiếp trên TV. Sau đối
thoại 29 tháng Tư, và sau quyết định của cuộc họp Bộ Chính trị 10 tháng
Năm Diêm Minh Phúc, một Bí thư của Bộ
Chính trị và một đồng minh của Triệu, đã ra Quảng trường để thương lượng với
các lãnh tụ sinh viên mà không có kết quả; Diêm và Lí Thiết Ánh (một uỷ viên Bộ
Chính trị phụ trách giáo dục) đã tổ chức một cuộc đối thoại vào ngày 14 tháng
Năm với các trí thức (có cả Đới Tình) và các lãnh tụ sinh viên nhưng nó đột
ngột bị ngừng khi một nhóm sinh viên từ Quảng trường đến và đòi chấm dứt đối
thoại bởi vì nó đã không được truyền hình trực tiếp. Vào ngày 16 tháng Năm,
trên Quảng trường Diêm đã tự nộp mình như một con tin để chứng tỏ tính chân
thực của lòng tin của ông rằng mọi vấn đề sẽ mau chóng được giải quyết. Các
sinh viên lại muốn chính phủ đầu hàng.
Vào ngày 17 tháng Năm Triệu đã xin gặp riêng Đặng Tiểu
Bình, khi ông đến nhà Đặng Tiểu Bình vào chiều hôm đó, hoá ra là Đặng đã triệu
tập tất cả các uỷ viên khác của BTV Bộ Chính trị và Dương Thượng Côn đến họp.
Quyết định được đưa ra để áp đặt quân luật. Triệu nói sẽ khó cho ông với tư
cách Tổng bí thư để thực hiện quân luật. Triệu Tử Dương de facto đã bị loại.
Đánh giá pha này, Đới Tình đã nói rõ, “Tại điểm này đã vẫn
chưa có đủ bằng chứng để có thể giải thích vì sao trong bối cảnh này một số
lãnh tụ sinh viên cấp tiến lại đã gây ra tình hình leo thang. Và hơn nữa, đã sử
dụng các phương pháp cực đoan, một cuộc tuyệt thực. Từ 13 đến 17 tháng Năm,
những người cực đoan đã khăng khăng về các điều kiện mà các nhà chức trách đã
chẳng bao giờ có thể chấp nhận. Họ đã đánh bạc với cuộc sống của những người
trẻ, và không chịu nhường bước, ngay cả với yêu cầu tối thiểu của chính quyền,
tức là, tạm thời trả lại và nhường Quảng trường Thiên An Môn cho công việc quốc
gia chào đón Tổng thống Gorbachev” [Dai 1999]. Vào tối ngày 17 tháng Năm, Triệu
đã đi thăm các sinh viên tuyệt thực phải nằm ở bệnh viện.
4.
Pha thứ tư, từ 18
tháng Năm đến cuộc đàn áp cuối cùng của quân đội. Triệu trên thực tế đã bị
những người theo đường lối cứng rắn bỏ qua. Ngày 18 tháng Năm, Thủ tướng Lí
Bằng, Bí thư Thành uỷ Bắc Kinh Lí Tích Minh và thị trưởng Trần Huy Đồng (những
người bảo thủ cứng rắn) cũng như Diêm Minh Phúc, Lí Thiết Ánh (các nhà cải
cách) đã tổ chức một cuộc gặp với các lãnh tụ sinh viên (Wu’erkaixi [Ngô Nhĩ
Khai Hy], Vương Đan và Hùng Diễm). Lí Bằng đã coi cuộc gặp không như một
cuộc thương lượng giữa hai bên và đòi các sinh viên chấm dứt tuyệt thực và đã
đối xử các sinh viên như “những đứa trẻ con.” Và cuộc gặp đã kết thúc mà không
có kết quả nào bởi vì Lí Bằng đã không coi các lãnh tụ sinh viên như các đối
thác thương lượng như họ đòi hỏi. Vào ngày 19 tháng Năm, biết trước những gì sẽ
xảy ra cho các sinh viên, Triệu đã ra Quảng trường để làm cố gắng cuối cùng của
ông nhằm thuyết phục các sinh viên rời Quảng trường ngay lập tức và vô điều
kiện. Mắt đẫm lệ, ông đã không thể nói với những người trẻ quanh ông nhiều hơn.
Những gì ông nói đã chỉ là, quá muộn cho tôi để gặp các bạn. Và tôi là một
người già, các bạn, các bạn trẻ phải lo cho mình, bởi vì các bạn có một tương
lai tươi sáng. Nhưng các lãnh tụ sinh viên đã không đáp ứng. Đó đã là sự xuất
hiện trước công chúng cuối cùng của Triệu. Vào ngày 19 tháng Năm, một cuộc họp
BTV Bộ Chính trị đã được tiệu tập để công bố quân luật, Triệu được yêu cầu chủ
toạ cuộc họp đó nhưng ông đã từ chối tham dự. Vào ngày 20 tháng Năm, quân luật
được công bố công khai. Việc này lần nữa lại đã huy động quần chúng. Binh lính
bị các công dân chặn không vào được thành phố để thi hành quân luật. Sự bế tắc
kéo dài hơn mười ngày, quân luật đã trở nên không có hiệu lực và điều này đã cổ
vũ ngày càng nhiều người tham gia biểu tình. “Nhân dân đã dũng cảm đương
đầu với quân đội—sử dụng chẳng gì ngoài thân thể họ và mưu kế của họ—và họ đã
chiến thắng. Đối với các sinh viên, đấy đã là một chiến thắng lớn, một dấu hiệu
rằng phong trào của họ đã trở thành một phong trào quần chúng” [Lim 2014, p.
13].
Mặc dù trên thực tế đã bị gạt sang bên lề, Triệu Tử Dương
đã thử cứu vãn tình thế bằng việc gửi một bức thư cho Đặng Tiểu Bình vào ngày
18 tháng Năm, bằng việc nói với vài người để gọi Vạn Lí về nước từ một cuộc
viếng thăm nhà nước chính thức ở nước ngoài và đã thuyết phục cho một cuộc họp
Uỷ Ban Thường Vụ Quốc hội hay một cuộc họp Bộ Chính trị, tất cả những cố gắng
này đã đều vô ích. Thực tế ông đã bị giam lỏng, và đã nghe tiếng súng nổ dữ dội
vào đêm 3 tháng Sáu từ nhà ông. “Vào ngày 2 tháng Sáu, cố gắng cuối cùng của
các nhà cải cách, các đại diện của con trai cả của Đặng Tiểu Bình đã thử khuyên
các sinh viên để bắt đầu rút lui và rồi Đặng trẻ đã nói ông sẽ làm hết sức mình
để dùng lý lẽ thuyết phục cha ông đừng sử dụng vũ lực. Một cách không ngờ, nó
cũng đã không mang lại thành công. Vào nửa đêm 3 tháng Sáu, các xe tank đã tiến
vào Quảng trường. Bốn người ôn hoà, một ca sĩ, một giáo viên, một học giả, và
một biên tập viên, với sự đi cùng của một bác sĩ, đã đi ra và đã đạt một thoả
thuận với quân đội, một sự rút lui không điều kiện vào một thời điểm định trước.
Các lãnh tụ cực đoan đã không ngăn họ lần này và lần nữa họ đã nhận được sự
giúp đỡ trong việc chạy trốn. Đấy đã là ngày bi thảm nhất trong lịch sử chính
trị thế kỷ thứ hai mươi của Trung Quốc.” [Dai 1999].
Có nhiều phân tích về các cuộc phản kháng Thiên An Môn, thí
dụ, [Lim 2014] và [Donatella 2014] đặc biệt những phân tích của Craig Calhoun
được Donatella trích dẫn rộng rãi. Các cơ chế trong dân chủ hoá sôi động,
mà đã được Donatella tổng hợp (xem Bảng 2.1 của bà, trang 64) không chỉ từ
trường hợp Trung Quốc mà từ nhiều trường hợp khác như Đông Đức, Tiệp Khắc,
Tunesia, Ai Cập và nơi khác, là rất hữu ích. Các cơ chế nhận thức, xúc cảm và
quan hệ cũng như việc định khung dân chủ và sự huy động các nguồn lực là khá rõ
trong bảy tuần huy động này ở Trung Quốc [Donatella 2014, p. 64-65, 134-137,
304]. Tất cả các cơ chế nhân quả và các sự định khung cũng như sự huy động
nguồn lực hay sự tạo ra nguồn lực này mang tính động và tương tác với các hành
động của các đối thủ (những người cai tri) mà luôn luôn không rõ cho những
người biểu tình và có thể gây ra những đánh giá sai. Về nhiều phân tích hơn xem
các công trình được nhắc tới ở trên và các dẫn chiếu trong đó. Sự mô tả ngắn
gọn ở trên cũng thử làm nổi bật các cơ chế đó và quá trình leo thang từ cả hai
phía.
II.
VÀI
BÀI HỌC
Chúng tôi thử rút ra vài bài học
từ các cuộc phản kháng Thiên An Môn, cũng như từ các cố gắng dân chủ hoá ở nơi
khác, mà có thể xác đáng cho quá trình dân chủ hoá ở Việt Nam.
Cuộc đấu tranh
bất bạo động cho dân chủ hoá là một cuộc đấu tranh dài, khó khăn và gian khổ.
Thành công hay thất bại của nó phụ thuộc vào nhiều nhân tố (kể cả các nhân tố
ngẫu nhiên). Chúng ta có thể phân biệt các nhân tố (không ngẫu nhiên) này thành
hai loại: các nhân tố tương đối ổn định (theo nghĩa chúng thay đổi chậm), như
các điều kiện cấu trúc, các nguồn lực hành động, các giá trị thịnh hành, (xem
[Welzel, 2013, tr. 45-46]), và các nhân tố (hay các phần của chúng) mà có thể
thay đổi nhanh hay sinh ra trong quá trình huy động, đặc biệt trong pha mạnh
mẽ, như các quan hệ và các cơ chế nhận thức, xúc cảm và quan hệ (xem,
[Donatella 2014, p. 27-65]. Chúng ta gọi các nhân tố loại trước là các nhân
tố cấu trúc (kể cả các kỹ năng tổ chức và lãnh đạo) và các nhân tố sau là các
nhân tố hợp trội (emergent) [Donatella 2014, p. 32].
Chúng ta nhận
thấy rằng dân chủ hoá có vẻ có nhiều khả năng thành công hơn trong những trường
hợp nơi các nhân tố cấu trúc là thuận lợi hơn (hay diễn đạt một cách hình tượng
các điều kiện nền này là đủ cao) trong cả dân chủ hoá sôi động (eventful democratization)
hay hiệp ước tham gia (participatory pact) do đám đông dẫn dắt và trong chuyển
đổi dân chủ được thoả ước (pacted transition) do elite dẫn dắt [Donatella 2014,
p. 16]. Tuy vậy, nếu các điều kiện cấu trúc là ít thuận lợi hơn (không đủ cao)
thì dân chủ hoá sôi động có khả năng thất bại giữa các điều kiện khác như nhau.
Theo Donatella
del Porta “ở Trung Quốc, bất bạo động đã thất bại trong các cuộc biểu tình
Quảng trường Thiên An Môn do đối lập thiếu các liên minh; thay vào đó, những sự
chia rẽ đã tăng lên với sự thiếu tác động đòn bẩy cho sự ủng hộ từ nước ngoài,
và chế độ đã duy trì sự kiểm soát quân đội. Trong khi tính kiên cường thực ra
đòi hỏi các cấu trúc phân tán (phi tập trung), mà, là dân chủ hơn, tăng cường ý
thức đối lập mặc dù cho phép sự điều phối, các cố gắng để áp đảo bởi một phần
có kết quả ngược lại.” [Donatella 2018, tr. 8]. Đánh giá này phù hợp với đánh
giá của Đới Tình, “Những người biểu tình về cơ bản đã có cơ hội nhiều lần để
rút lui mà không có được bất kể lợi lộc lớn nào nhưng cũng chẳng có sự mất mát
khủng khiếp nào. Và phẩm giá của họ cũng đã có thể được duy trì. Nhưng phong
trào đã tuột khỏi vòng kiểm soát rồi. Nhiều tổ chức đã được thành lập lúc này,
và một vài trong số chúng đã xem xét để lấy (công đoàn) Đoàn kết như danh hiệu
của chúng. Tính đến ý định của các nhà chức trách và chuẩn bị tương lai riêng
của họ, các lãnh tụ cực đoan đã chỉ áp dụng cường độ xúc cảm cao nhất trong
cuộc nói chuyện của họ với chế độ, mà đối với những người vẫn tiếp tục ở lại
trên Quảng trường đã giống như đổ dầu vào lửa.”
Các tổ chức xã
hội dân sự đã hiếm hay các nhóm sinh viên độc lập đã chỉ được thành lập trong
thời gian các cuộc biểu tình, đã không có các tổ chức độc lập giữa các công
nhân, các trí thức hay các mảng khác của dân cư bởi vì ĐCSTQ đã cấm nghiêm ngặt
sự hình thành của các tổ chức hay các nhóm phi chính thức như vậy.
Sau khi Triệu
trên thực tế bị loại bỏ và những người theo đường lối cứng rắn đã kéo được Đặng
Tiểu Bình sang phía họ, những kẻ cai trị đã thống nhất. Nói cách khác, các điều
kiện cấu trúc (kể cả kỹ năng tổ chức, kinh nghiệm lãnh đạo) đã không thuận lợi
cho dân chủ hoá.
Các sinh viên
đã thử bắt chước Đoàn Kết Ba Lan đòi đối thoại nhưng đã không có lực lượng đối
lập nào đứng sau họ như trong trường hợp Ba Lan.
Một bài học
cực kỳ quan trọng từ các cuộc phản kháng Thiên An Môn hay ở Phillipines (và
nhiều trường hợp khác như hiện thời ở Algeria, Sudan hay Venezuela) là, quân
đội đóng một vai trò cốt yếu, và các chính sách để thuyết phục quân đội, để lôi
kéo chúng (binh vận 兵運) là quan trọng trong huy
động cho dân chủ và để “quốc hữu hoá” quân đội trong pha củng cố dân chủ.
Cuộc tranh
luận về tiết chế (moderation debate) cũng đáng xem xét. Tiết chế từ lâu đã được
xem như thuận lợi cho chuyển đổi dân chủ (democratic transition)
[Donatella 2014, tr. 9, 197-198]. Tuy vậy, có nhiều trường hợp đã chứng minh
rằng sự cấp tiến hoá (hay sự gây gổ) là hữu ích trong dân chủ hoá sôi động
[Donatella 2014, p. 9, 199-200], Nancy Bermeo [trong Anderson 1999, tr.
120-136]. Điều này có nghĩa rằng chúng ta phải xem xét sự tiết chế vs sự cấp
tiến hoá (moderation versus radicalization) từng trường hợp một hay trong những
pha khác nhau của dân chủ hoá (trong pha chuẩn bị cho chuyển đổi những sự gây
gổ đã xuất hiện hầu như trong mọi trường hợp, nhưng trong giai đoạn chuyển đổi
ngắn sự tiết chế có thể tạo các cơ hội tốt trong chuyển đổi được thoả ước do
elite-dẫn dắt và thoả ước tham gia do quần chúng dẫn dắt, cũng như trong dân
chủ hoá sôi động (mà có thể thành công hay thất bại). Tôi nghĩ rằng chúng ta
phải xem xét các cuộc phản kháng Thiên An Môn hoặc như chúng đã xảy ra trong
pha chuẩn bị của dân chủ hoá (tức là sự chuyển đổi đã chưa xảy ra ở Trung Quốc
và trong trường hợp đó sự cấp tiến hoá của các sinh viên đã là có thể biện minh
được) hay như trong một chuyển đổi thất bại (và trong trường hợp này sự cấp
tiến hoá có thể dẫn đến thất bại).
Những bài học
thành công của sự huy động Thiên An Môn trong năm 1989 là rất hữu ích, nhưng
các bài học về sự thất bại của nó cũng đáng xem xét để tránh những cạm bẫy như
vậy.
III.
MỘT
CHIẾN LƯỢC CHO DÂN CHỦ HOÁ Ở VIỆT NAM
Việt Nam và các nước xã hội chủ
nghĩa trước kia (đặc biệt Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa) có nhiều điểm giống nhau
nhưng cũng có nhiều điểm khác nhau. Trước khi thảo luận một chiến lược cho dân
chủ hoá ở Việt Nam, hãy để tôi quay lại một sự phát triển sớm của Việt Nam vào
đầu thế kỷ trước.
Có thể bạn
chưa bao giờ nghe về Phan Châu Trinh. Ông sinh ngày 9 tháng Chín 1872, và qua
đời vào ngày 24 tháng Ba 1926. Từ 1905 đến 1907 ông đã bày tỏ những ý tưởng
của mình về đấu tranh bất bạo động cho dân chủ và dân quyền (các quyền con
người) ở Việt Nam mà tôi sẽ quay lại muộn hơn. Các cuộc bạo động chống-thuế đã
nổ ra ở miền Trung Việt Nam trong năm 1908. Bất chấp sự thực rằng Phan Châu
Trinh đã kiên trì về các phương pháp bất bạo động, ông đã bị vu cáo kích động
công chúng tham gia nổi loạn và ông đã bị bắt và bị kết án tử hình. Do sự can
thiệp của Ligue des Droits de l’Homme (Liên đoàn các Quyền Con người) án
tử hình đã được thay đổi thành chung thân và muộn hơn thành quản thúc tại gia
trong một làng, rồi ông được thả trong năm 1910 và bị trục xuất sang Pháp. Từ
tháng Tư 1911 ông đa sống lưu vong mười bốn năm. Ông đã trở lại Saigon năm 1925
và đã mất vào ngày 24 tháng Ba 1926.
Các ý tưởng
của Phan Châu Trinh để đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền có thể được trình
bày lại ngắn gọn trong 5 khẩu hiệu (chính sách hay chiến lược) của ông mà chúng
tôi, Diễn đàn Xã hội Dân sự (DĐXHDS), đã lấy làm của mình:
1.
(Một chiến lược để)
Xây dựng Dân chủ (gồm):
2.
Thực thi Dân Quyền
3.
Chấn hưng Dân Khí
4.
Nâng cao Dân Trí
5.
Cải thiện Dân Sinh
Phan Châu Trinh đã là một nhà tư
tưởng tân tiến đến kinh ngạc về hiện đại hoá. Hãy bắt đầu với các chính sách
thứ tư và thứ năm của ông kể từ dưới lên: “Cải thiện Dân Sinh” và “Nâng cao Dân
Trí”. Chúng đã không chỉ là các tư tưởng của ông, mà bản thân ông cùng các bạn
đã bắt đầu một chương trình để đưa chúng vào thực tiễn. Bằng việc lập các
trường học, các hiệp hội, các công ty và cổ vũ những người khác làm vậy, ông đã
nêu gương cho những người khác bằng việc cổ vũ nhân dân tạo ra cái gọi là “các
nguồn lực hành động”, có thể nói như vậy, mượn ngôn ngữ của lý thuyết hiện đại
hoá mới: nguồn lực vật chất (thiết bị, các phương tiện, và thu nhập), nguồn
lực trí tuệ (sự hiểu biết, các kỹ năng, và thông tin) và nguồn lực kết
nối (các mạng trao đổi và giao diện liên lạc) ở mức cơ sở, căn bản [Welzel
2013, tr. 46].
Trong một tiểu
luận gần đây [Nguyen 2017], tôi đã ánh xạ các ý tưởng của Phan Châu Trinh hơn
một thế kỷ trước vào các ý tưởng của các lý thuyết tân hiện đại hoá. Tôi đã cho
thấy rằng các chính sách thứ tư và thứ năm của Phan tương ứng với “các nguồn
lực hành động” của lý thuyết tân hiện đại hoá ở mức cơ sở và rằng các giá trị
được chính sách thứ ba của Phan, “Chấn hưng Dân Khí” tạo ra, tương ứng với các
giá trị giải phóng trong mức văn hoá, động cơ thúc đẩy, tiếp theo của lý thuyết
đó, các giá trị này thúc đẩy và cổ vũ các hoạt động phong trào xã hội (ở một
mức trên về hành động, được bày tỏ bởi chính sách thứ hai “Thực thi Dân
Quyền”). Và các hoạt động phong trào xã hội về “Thực thi Dân Quyền, tức là bạn
(và mọi người) cứ thực hiện các quyền đó của mình mà không đợi bất kể ai (chính
quyền, đảng cầm quyền hay bất cứ tổ chức hay cá nhân nào khác) cho phép bạn làm
việc đó trong cuộc sống hành ngày. Cách sống chủ động này gây ra các áp lực
liên tục lên các nhà chức trách để cung cấp các đảm bảo pháp lý cho (hay thể
chế hoá về) các quyền tự do và đảm bảo rằng các quyền tự do đó được tôn
trọng trong đời sống hàng ngày, tức là, các quyền tự do đó là các quyền được
hưởng hay các quyền công dân ở mức trên cùng (sự trao quyền đó là bản chất của
dân chủ hoá mà có thể được thực hiện từng phần ngay cả trong lòng của một chế
độ độc tài và thậm chí cũng phải được thực hiện trong các nền dân chủ trưởng
thành vì số các quyền con người là vô tận). Xã hội dân sự dày, sống động và bao
gồm (inclusive) này là cốt yếu không chỉ trong quá trình dân chủ hoá dẫn tới sự
chuyển đổi dân chủ, mà cả trong sự củng cố dân chủ nếu sự chuyển đổi đã xảy ra.
Đáng tiếc,
trong hơn một thế kỷ qua Việt Nam đã không theo chiến lược khôn ngoan của Phan
và ngày nay chúng ta vẫn chịu đau khổ dưới chế độ độc tài Cộng sản. Chúng tôi
thử trình bày lại chiến lược đó và bổ sung nó với 9 nguyên tắc để hình thành
một chiến lược mạch lạc và cố kết phù hợp với thời đại của chúng ta.
Phan Châu
Trinh đã là một chiến sĩ bất bất bạo động kiên định và nhất quán cho dân chủ và
các quyền con người. Ông đã chấp nhận các phương pháp bất bạo động ngay từ
1905, cùng thời như Mahatma Gandhi (1906); Phan đã trẻ hơn Gandhi 3 tuổi. Sự
trùng hợp này có thể không phải là một sự ngạc nhiên, tôi nghĩ, bởi vì cả hai
vị đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi các ý tưởng bất bạo động của các tư tưởng Ấn Độ
được bày tỏ vài ngàn năm trước, trong các giáo lý của Buddha được truyền bá
chẳng hạn bởi Dalai Lama và thầy Thich Nhất Hạnh trong thời đại chúng ta.
Bất bạo động
là một trong những nguyên tắc chỉ đạo các hành động của chúng ta trong xã hội
dân sự Việt Nam nói chung, và nhất là trong DĐXHDS.
Chiến lược của
chúng ta cho dân chủ hoá ở Việt Nam gồm 5 chính sách được nhắc tới ở trên và 9
nguyên tắc sau.
Chúng tôi,
DĐXHDS, tuân theo 9 nguyên tắc (hay các giá trị cốt lõi) trong cuộc đấu tranh
để biến đối chế độ toàn trị ở Việt Nam thành một nền dân chủ đích thực một cách
hoà bình. Chín nguyên tắc này là:
1. Tính hợp pháp: DĐXHDS và các thành viên của nó hoạt động
một cách hợp pháp, tôn trọng các luật, không đấu tranh chống lại nhà nước. Tính
hợp pháp được hiểu ở đây như sự tuân thủ các hiệp ước quốc tế mà Việt Nam đã
tham gia, hiến pháp, các luật và các quy chế khác của nhà nước không mâu thuẫn
với các quy định cao hơn (theo thứ tự nghiêm ngặt được Hiến pháp và các luật
Việt Nam quy định rõ: các hiệp ước quốc tế, hiến pháp, các luật, các nghị định
của chính phủ, các thông tư của các bộ chuyên ngành). Nói cách khác, tính hợp
pháp bao gồm cả sự bất tuân đối với những quy định của nhà nước mà mâu thuẫn
với quy định ở mức cao hơn, theo thứ tự từ cao xuống: các hiệp ước quốc tế,
hiến pháp, các luật, …
2. Tính tự trị: tất cả các thành viên của DĐXHDS có các quyền
và các nghĩa vụ ngang nhau trong hoạt động của DĐXHDS, không ai có thể yêu cầu
một thành viên làm cái thành viên đó không muốn. Mỗi thành viên (hay nhóm thành
viên) hành động một cách tự trị với tính sáng tạo của mình, sáng kiến của mình
theo cách riêng của mình nhằm để đạt được mục tiêu của DĐXHDS, nhưng phải chấp
nhận các giá trị cốt lõi và các nguyên tắc của DĐXHDS và điều này không loại
trừ các hoạt động cùng nhau.
3. Tên thật: tất cả các thành viên của DĐXHDS sử dụng tên thật
trong các hoạt động của DĐXHDS; bút-danh, nghệ-danh là có thể chấp nhận được
nếu nó có thể nhận diện rõ người có bút danh hay nghệ danh ấy. Không tên-giả
hay tên-sai nào được chấp nhận trong các hoạt động của DĐXHDS. Việc giữ tính
chính trực là một đòi hỏi tối quan trọng.
4. Tính công khai: DĐXHDS là mở và hoạt động công khai. Chẳng
cần giấu giếm thứ gì. Việc này cũng áp dụng cho mỗi thành viên trong các hoạt
động của DĐXHDS.
5. Bất bạo động: DĐXHDS và các thành viên của nó tôn trọng
triệt để bất bạo động. Bất bạo động có hai khía cạnh. Thứ nhất, DĐXHDS và các
thành viên của nó không sử dụng bất kể phương tiện bạo lực nào để đạt mục tiêu
của nó. Thứ hai, DĐXHDS và các thành viên của nó sử dụng tất cả các biện pháp
bất bạo động và pháp lý trong các hoạt động của họ và cùng nhau với những người
hay các tổ chức khác để thuyết phục những người chủ trương bạo động để họ từ bỏ
chính sách bạo động của họ nhằm ngăn chặn các hành động bạo lực của bất cứ ai
hay tổ chức nào. Bạo lực cũng gồm lời nói xấu, hận thù, các hình thức khác kích
động bạo lực, ... và phải bị loại trừ.
6. Khoan dung: nguyên tắc để chấp nhận và tôn trọng các ý kiến
khác nhau, đặc biệt các ý kiến của các thiểu số, phải được tuân thủ nghiêm
ngặt.
7. Chân thật: Tất cả thông tin cần được kiểm tra chéo nhằm đảm
bảo rằng nó chính xác nhất có thể. Sự bóp méo, sự làm giải, sự giả mạo, những
lời nói dối là không thể chấp nhận được.
8. Sự tin cậy: Tin cậy lẫn nhau là một nguyên tắc quan trọng.
Nó không khuyến khích bất cứ thủ tục nào hay biện pháp nào gây ra sự nghi ngờ.
DĐXHDS không sợ sự xâm nhập của bất kể lực lượng nào (kể cả những người cộng
sản và các lực lượng an ninh). Tư cách thành viên của họ thậm chí được hoan
nghênh nếu họ chấp nhận các mục tiêu, các giá trị và các nguyên tắc của DĐXHDS
như bất kể thành viên nào khác.
9. Đoàn kết: tinh thần đoàn kết được duy trì trong các hoạt
động của các nhóm cũng như của DĐXHDS như một toàn thể; đoàn kết với các nhóm
hay các tổ chức khác, nhất là khi một thành viên của các nhóm đó hay bất kỳ ai
khác bị sách nhiễu hay bị ngược đãi.
DĐXHDS, được thành lập ngày 23
tháng Chín 2013 bởi những người đã ký Kiến nghị 72, không phải là một tổ chức
có thứ bậc, nó là một mạng phẳng, một mạng tự-tổ chức chia sẻ những giá trị,
các nguyên tắc và mục tiêu chung. Nó khuyến khích sự chồng lấn, tức là một
người có thể là thành viên của nhiều nhóm. Nói cách khác, nó thử là một mạng ô
dù (umbrella network) của các mạng được kết nối một cách lỏng lẻo. Và
chiến lược cho dân chủ hoá ở Việt Nam nêu trên được DĐXHDS công bố trong năm 2013.
Không cần phải
nói, rằng trong mục tiêu, các giá trị, và các nguyên tắc nêu trên ta có thể
thấy nhiều đặc tính của các tổ chức xã hội dân sự ở các nước cộng sản trước kia
ở đông và trung Âu và nơi khác trên thế giới, kể cả của các tổ chức trong khu
vực của chúng ta [Hsiao 2006].
Chúng tôi nghĩ
tình hình hiện tại của chúng tôi khá giống tình hình của Đài Loan trong nửa đầu
của những năm 1980 trước chuyển đổi dân chủ của nó. Khi đó đảng cai trị ở Đài
Loan, Quốc Dân Đảng, đã là một đảng Leninist và nền kinh tế của Đài Loan đã là
một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay vẫn là một
đảng Leninist và nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa từ ít
nhất 15-20 năm nay. Chúng tôi đã học những kinh nghiệm của các nước xã hội chủ
nghĩa trước kia ở Đông Âu cũng như những kinh nghiệm từ Đài Loan, Hàn Quốc,
Phillippines để trình bày chiến lược được nêu ở trên.
Tóm lại, một
chiến lược khả thi cho dân chủ hoá ở Việt Nam là để phát triển một xã hội dân
sự dày, sinh động và bao hàm với 5 chính sách và 9 nguyên tắc được nêu ở trên
nhằm để gây áp lực liên tục lên các nhà chức trách và buộc họ dân chủ hoá (qua
các cuộc thương lượng hay qua một sự đoạn tuyệt).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[Anderson 1999], Lisa Anderson (ed.), Transitions to Democacy,
Columbia University Press, 1999, bản tiếng Việt 2015.
[Dai 1999], Đới Tình, Thiên An Môn in Perspective: Ten Years
Later, panel presentation at COMMUNISM'S
NEGOTIATED COLLAPSE: THE POLISH ROUND
TABLE TALKS OF 1989, TEN YEARS LATER. A
Conference at the University of
Michigan, April 7-10, 1999; bản tiếng Việt 2013.
[Donatella 2014], Donatella della Porta, Mobilizing for
Democracy: Comparing 1989 and 2011, Oxford University Press, 2014; Bản
tiếng Việt 2019, Huy động cho Dân chủ: So sánh 1989 và
2011.
[Donatella 2018] Donatella della Porta, Teije Hidde Donker,
Bogumila Hall, Emin Poljarevic and Daniel P. Ritter, Social Movement and
Civil War: When Protests for Democacy failed, Routlege, 2018; Bản tiếng
Việt 2018, Phong trào Xã hội và Nội chiến: Khi các
cuộc phản kháng cho Dân chủ thất bại.
[Doorenspleet 2019]*, Renske
Doorenspleet, Rethinking Value of Democracy, Palgrave Macmillan, 2019.
[Hsiao 2006], Hsin-Huang Michael
Hsiao (ed.), Asian New Democracies: The Philippines,
South Korea and Taiwan Compared, Taiwan Foundation for Democracy, 2006. Bản tiếng Việt, 2015.
[Lim 2014]* Luisa Lim, The People’s Republic of Amnersia – Tienanmen
Revisited, Oxford University Press (2014).
[Nguyen 2017], Nguyễn Quang A, “Phan Châu Trinh và Thuyết hiện đại hoá
mới”
[Welzel 2013] Christian Welzel Freedom Rising: Human Empowerment
and the Quest for Emancipation (Cambridge University Press, 2013.) Bản
tiếng Việt, 2017, Tự do đang Lên
[Triệu 2009], Prisoner of the State: the
secret Journal of Premier Triệu Tử Dương Simon & Scuster (2009), pp.
3-87. Bản tiếng Việt 2019, Hồi Ký Triệu Tử Dương
(Với ngoại lệ của hai cuốn sách này*, bảy cuốn được nhắc tới ở trên cộng cả tá cuốn khác về dân chủ
hoá là sẵn có bằng tiếng Việt như một cố gắng để Nâng cao Dân Trí.)