Lưu Dân
Bob Hawke (1929-2019) - Thủ tướng Úc 1983 - 1991 |
Tin ông qua đời hôm 16.05.2019, dù ở tuổi thượng thọ 89, đã làm lòng tôi chùng xuống trong niềm xúc cảm sâu xa.
Không phải chỉ vì ông là một nhà lãnh
đạo kiệt xuất của nước Úc thời hậu chiến – và ông hoàn toàn xứng đáng với sự
công nhận đó từ nhiều người cùng thời cũng như của thế hệ hậu bối – mà còn là
một con người bình dị, gần gũi và thân thiện.
Tôi, cũng như nhiều
bạn đồng niên khác thuộc “thế hệ thứ nhất” của dòng người tỵ nạn từ Việt Nam,
đã sống hầu như gần trọn cuộc đời trưởng thành của mình dưới bóng che bao trùm
của ông dù ông đã rời chính trường gần 30 năm. Những cải cách mang tính chất
viễn kiến và nhân bản của ông đã xây nên một nền tảng phát triển vững bền cho
nước Úc – trong đó có cộng đồng người gốc Việt chúng tôi.
Có thể một số người
không đồng ý với ý kiến này, nhưng xin hãy công tâm nghĩ lại dù bạn có khuynh
hướng chính trị hay đảng phái nào. Khi ông trở thành Thủ tướng thứ 23 của Úc,
cộng đồng người Việt tỵ nạn lúc ấy vẫn còn rất mong manh, non trẻ với hàng trăm
mối lo toan cho cuộc sống mới. Tuy vị Thủ tướng tiền nhiệm được ghi công chính
đáng như là “người mở cổng” cho việc thu nhận thuyền nhân tỵ nạn đến Úc định cư
nhưng trong 4 nhiệm kỳ cầm quyền liên tiếp của ông (từ 1983 đến 1991), sự thu
nhận định cư cho người gốc Việt ở Úc đã gia tăng đến con số cao nhất so với bất
cứ thời kỳ nào về sau. Về nhiều phương diện, đây cũng là thành phần định hình
diện mạo của cộng đồng người Việt bây giờ.
Với các chính sách
cải cách về việc làm, giáo dục, y tế, an sinh xã hội… ông đã tạo ra cơ hội vô
giá cho chúng tôi hội nhập và phát triển ở xứ sở kangaroo thanh bình và nhân ái
này sau những cuộc vượt thoát thập tử nhất sinh khỏi chế độ cộng sản ở quê nhà.
Tôi rùng mình tưởng tượng nếu không có một hệ thống y tế đại chúng như Medicare,
nếu không có sự giúp đỡ cho học sinh tiếp tục con đường học vấn miễn phí ở bậc
đại học, nếu không có chính sách quỹ hưu trí bắt buộc, nếu không có một mạng
lưới an sinh xã hội cho những người thuộc thành phần thiệt thòi – và hàng chục
thứ “nếu không có” khác mà ông đã thực hiện – có lẽ cộng đồng người gốc Việt đã
không có sự thành công như ngày nay.
Với một tỷ lệ khá cao trong cộng đồng người Việt
bây giờ là thành phần chuyên viên tốt nghiệp đại học, là những thương nhân
thành đạt hoặc ít ra là có cuộc sống ổn định, không ai có thể phủ nhận sự giúp
đỡ ấy trong bước đầu định cư của họ. Và sự thụ hưởng những chính sách nhân đạo,
công bắng và tiến bộ đó mà ông khởi xướng vẫn còn tiếp tục lan tỏa đến nhiều thế hệ sau.
Tôi không viết lại
về tiểu sử và những thành tích của ông trong bài tưởng niệm và tri ân ngắn ngủi
này vì điều đó đã được nhiều sử gia ghi nhận, trong đó có một điểm son đáng chú
ý: ông là nhà lãnh đạo có lúc đã được 75% dân Úc ái mộ, một tỷ lệ mà bất cứ
chính trị gia nào cũng ngã mũ nể phục.
Một điều tôi muốn nói thêm: ông là người đã trao
cho nước Úc bản quốc ca mới để thay thế cho bài “God Save The Queen” mang
âm hưởng mẫu quốc Anh được hát từ nhiều thập niên trước. Theo đề nghị của ông,
Tổng Toàn Quyền lúc đó (năm 1984) đã chuẩn thuận bài “Advance Australia Fair” là quốc ca chính thức của
Úc. Bài hát có đoạn:
… For those who’ve come across the seas / We have
boundless plains to share /
With courage let us all combine / To Advance
Australia Fair…
(… Với những người
đến đây từ bốn biển / Chúng ta có những bình nguyên bất tận để chia sẻ / Với
lòng quả cảm tất cả chúng ta hãy kết hợp / Để tiến tới ngày hội của nước Úc…)
Có lẽ trong nhiều bài quốc ca khác, hiếm có nước
nào nói đến sự đón nhận và chia sẻ với những người di cư bằng lời lẽ khoan hòa
và thân thiện như thế.
Ông còn là một kết
hợp hiếm thấy trong hàng ngũ những nhà lãnh đạo chính trị quốc tế: vừa là một
trí thức ưu tú (được học bổng danh giá Rhodes) vừa là một tay chơi có hạng
(chiếm kỷ lục thế giới về uống bia nhanh nhất: 1.2 lít trong 11 giây), vừa là
một gã đàn ông bạt mạng (suýt gây tai nạn làm chết người khi lượn xe gắn máy)
vừa là một người có nhân cách cao cả (nổi tiếng với lời tuyên bố: "Từ nay,
nước Úc sẽ không có một đứa trẻ nào phải sống trong cảnh nghèo khổ")…
Ông cũng để lại
trong lòng dân Úc hình ảnh của một con người với những biểu lộ tình cảm rất đời
thường. Ông xấu hổ khi thú nhận chuyện ngoại tình khi còn sống chung với người
vợ đầu. Ông đã khóc nức nở trong một cuộc họp báo năm 1984 khi bị hỏi về việc
con gái của mình bị truy tố về tội ma túy. Ông cũng ràn rụa nước mắt trên màn
ảnh truyền hình trước tiền đình quốc hội ở Canberra khi cùng các sinh viên
Trung Quốc tưởng niệm hàng ngàn nạn nhân bị tàn sát trong biền cố Thiên An Môn
năm 1989…
Cá nhân tôi, trong
nhiều năm làm báo, đã có đôi lần hân hạnh phỏng vấn ông nhưng có lẽ kỷ niệm tôi
nhớ mãi lại không phải là chuyện nghề nghiệp. Hôm ấy, hồi giữa năm ngoái, tôi
tình cờ gặp ông ở phi trường Sydney. Ông ngồi trên xe lăn và được một nữ nhân
viên phục vụ đẩy đến lối đi ưu tiên cho người cao niên. Tôi cúi đầu chào ông
theo lối Úc “G’day, Sir!” và xin phép cô nhân viên ấy cho tôi được đẩy ông một
đoạn. Dĩ nhiên, đây chỉ là một cử chỉ nhỏ như một lời cám ơn của tôi vì trong
số hàng ngàn người ông từng tiếp xúc ông chẳng thể nào nhớ được gã trung niên Á
châu ấy là ai. Lúc chào tạm biệt, ông quay lại, thoáng cười và nói một câu rặt
Úc “G’on ya, mate!”
Bây giờ ông đã ra
đi nhưng nụ cười ấy tôi còn giữ lại trong lòng.
Với truyền thống
“Ăn trái nhớ kẻ trồng cây” của nền văn hóa Việt Nam, tôi biết ơn ông, Thủ tướng
Bob Hawke, người không những chỉ cho chúng tôi cơ hội làm lại cuộc đời mới trên
quê hương thứ hai mà còn trao cả một tình người bác ái và bình đẳng.
Thành kính chia
buồn cùng gia đình ông và cầu mong ông nghìn thu an giấc.
Sydney 17.05.2019