Theo Basam
Tác giả: GS Carl Thayer
Người dịch: Huỳnh Phan
Thông báo ngoài dự kiến của Trung Quốc vào ngày 15/7 rằng họ đã rút giàn khoan dầu khủng của mình khỏi vùng biển Việt Nam sớm hơn dự kiến, đã dẫn đến một cuộc tranh luận giữa các chuyên gia học thuật về lý do của việc này.
Zachary Abuza, giáo sư Đại học Simmons ở Boston, cho rằng Việt Nam đã bị quật ngã dưới sức ép của Trung Quốc, trong khi Alexander Vuving (Vũ Hồng Lâm), giáo sư tại Trung tâm châu Á-Thái Bình Dương về Nghiên cứu An ninh tại Hawaii, cho rằng Việt Nam vẫn đứng vững, còn Trung Quốc thì dao động.
Phân tích của Abuza xuất hiện trong phần “Phát biểu tự do” của Asia Times ngày 29/7. Phân tích của ông độc đáo, có tính khiêu khích và nhiều suy đoán.
Abuza cho rằng việc đặt giàn khoan dầu của Trung Quốc “đã bày ra mối đe dọa chia rẽ nhất trong nhiều năm trong ban lãnh đạo Đảng Cộng sản ở Hà Nội”. Không những các uỷ viên Bộ Chính trị chia rẽ sâu sắc mà phe đa số còn chọn cách xuống thang cuộc khủng hoảng bằng việc chiều theo sức ép của Trung Quốc. Abuza viết “Quyết định lùi bước của Hà Nội hàm chứa nhiều điều nghiêm trọng. Việt Nam đã ve vuốt TQ có hiệu quả, điều đó có rất nhiều khả năng sẽ dẫn đến bị gây hấn nhiều hơn”. Abuza kết luận rằng, một chính sách ve vuốt “sẽ gây nguy hiểm cho bản thân chính chế độ … [và] cho tính chính đáng của chế độ”.
Để hậu thuẫn cho lập luận của mình, Abuza đưa ra một số thông tin rất chi tiết về quá trình ra quyết định thường thiếu minh bạch của lãnh đạo Việt Nam. Lập luận của Abuza có thể được tóm tắt trong bốn điểm:
Thứ nhất, phản ứng với sự quyết đoán của Trung Quốc qua việc đặt giàn khoan HYSY 981 trong vùng biển Việt Nam vào đầu tháng 5, Abuza quả quyết rằng ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (BCHTW) đã họp vào tháng 6 và “nhất trí lên án sự gây hấn và xâm lấn của Trung Quốc”.
Thứ hai, chuyến đi Hà Nội của Ủy viên Quốc vụ viện TQ Dương Khiết Trì (DKT) vào ngày 18/6 đã cho thấy là then chốt. Trước chuyến đi này lãnh đạo Việt Nam hy vọng rằng DKT sẽ có những nhượng bộ ngoại giao. Theo Abuza, điều ngược lại đã xảy ra. DKT “làm bất cứ thứ gì ngoại trừ hòa giải,” ông “mắng mỏ chủ nhà vì ‘thổi phồng’ tình hình” và cảnh báo “thẳng thừng rằng TQ sẽ ‘sử dụng mọi biện pháp cần thiết’ để bảo vệ giàn khoan”.
Thứ ba, do kết quả của chuyến thăm của Ủy viên DKT đa số uỷ viên của Bộ Chính trị 16 người đã đảo ngược nghị quyết tháng 6 của BCHTW. Theo Abuza, phe thiểu số gồm 6 uỷ viên nghiêng về “một chiến lược nhiều mặt” đối đầu với Trung Quốc, trong khi phe đa số gồm 10 uỷ viên ủng hộ việc xuống thang cuộc khủng hoảng để chiều theo Trung Quốc.
Khía cạnh có tính suy đoán nhất trong phân tích của Abuza là việc ông phân loại từng uỷ viên Bộ Chính trị vào hai nhóm này. Theo Abuza, phe thiểu số bao gồm 6 uỷ viên: Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Bí thư Thành uỷ Hồ Chí Minh đồng thời là “nhà ủng hộ cải cách” Lê Thanh Hải, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, và Phó tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và Tòng Thị Phóng.
Phe đa số 10 uỷ viên gồm: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, uỷ viên Ban Bí Thư Tô Huy Rứa và Lê Hồng Anh, trưởng ban Kiểm tra Trung ương Ngô Văn Dụ, trưởng ban Tuyên giáo Đinh Thế Huynh, bí thư thành uỷ Hà Nội Phạm Quang Nghị, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Nguyễn Thiện Nhân, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh, “có thể là” Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang, và “rất có thể là” Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
Thứ tư, do việc đảo ngược chính sách này, Bộ Chính trị gác lại quyết định trước đó về tiến hành hành động pháp lý chống lại Trung Quốc, hạ giọng trong việc đòi hỏi về Bộ Quy tắc ứng xử có tính ràng buộc ở biển Đông, và hủy “chuyến đi đã công bố rõ lịch trình tới Washington” của Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh.
Bộ Chính trị quyết định dò hỏi Washington về “mức độ cam kết trong việc giữ một vai trò trong cuộc xung đột tiềm năng với Trung Quốc ở biển Đông” bằng cách phái bí thư thành uỷ Hà Nội và là uỷ viên Bộ Chính trị Phạm Quang Nghị thay chỗ của Phạm Bình Minh sang Mỹ.
Abuza kết luận rằng phe đa số trong Bộ Chính trị “không sẵn sàng đối đầu với TQ” và rằng “có một niềm hy vọng ở một số rằng qua việc nhượng bộ về quần đảo Hoàng Sa thì Trung Quốc sẽ đáp trả trong quần đảo Trường Sa”.
Alexander Vuving đưa ra một cái nhìn ngược lại trong một bài bình luận có tiêu đề “Có phải Trung Quốc đã dao động ở biển Đông”, công bố trên báo The National Interest. Vuving viết rằng cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu là “một cuộc đấu trí … Bên nào có quyết tâm hơn thì có thể giành chiến thắng ngay cả khi đó là bên yếu hơn. Với chủ quyền của mình bị đe dọa, hai nước đọ quyết tâm với nhau để xem ai sẽ dao động trước”.
Ngay sau khi Trung Quốc đặt giàn khoan dầu ở vùng biển Việt Nam, các nhà lãnh đạo Hà Nội tìm cách thương lượng với Bắc Kinh. TQ đã đáp trả với bốn điều kiện tiên quyết: Việt Nam phải chấm dứt sách nhiễu giàn khoan dầu; Việt Nam phải từ bỏ tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa; Việt Nam không được theo đuổi hành động pháp lý chống Trung Quốc; và Việt Nam không được dính dáng với các bên thứ ba, chẳng hạn như Hoa Kỳ.
Theo Vuving, tập thể lãnh đạo của Việt Nam đáp ứng bằng cách bỏ kế hoạch tiến hành hành động pháp lý chống Trung Quốc và dời chuyến thăm Washington của Ngoại trưởng Minh lại. Điều này tạo tiền đề cho Trung Quốc thực hiện “hành động xuống thang đáp trả”.
Ngày 15/7 TQ thông báo rằng họ đã rút giàn khoan Hải Dương 981 khỏi vùng biển Việt Nam và, trong một tuyên bố riêng biệt, thả 13 ngư dân Việt Nam mà họ đã bắt giữ trước đó. Vuving kết luận rằng “hành động của Bắc Kinh có thể trông giống như việc mặc cả ngầm, nhưng bản chất thực sự của nó là một cái gì khác hơn”. Vuving lưu ý tính chất đối xứng và sự mong manh trong việc nhượng bộ nhau của cả TQ lẫn Việt Nam. Nói cách khác mỗi bên có thể đảo ngược hành động của mình bất cứ lúc nào.
Trái với Abuza, Vuving xem xét động lực của cả TQ lẫn Việt Nam trong phân tích của mình. Vuving kết luận rằng sự hạ mình của Hà Nội đối với Bắc Kinh chỉ là “một phần nhỏ của toa thuốc, nếu có phần nào đó”.
Vuving lập luận rằng cho đến cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu nổ ra, Trung Quốc đã theo đuổi chiến thuật “tầm ăn dâu” (salami-slicing) qua đó Bắc Kinh theo đuổi “cách cân bằng tinh tế giữa quyết đoán và kiềm chế để các hành động [của họ] là vừa đủ để thay đổi sự kiện trên hiện trường nhưng chưa đủ để tạo ra một lý do mạnh cho các nước khác quay ra chống lại” họ.
Trái với Abuza vốn khẳng định rằng các nhà lãnh đạo của Việt Nam chịu thua Trung Quốc và “Hoa Kỳ … đã không can dự vào một cách có ý nghĩa”, Vuving kết luận ngược lại. Theo Vuving, việc TQ bắt nạt đã dẫn đến một sự thay đổi chưa từng có trong nhận thức của Việt Nam về Bắc Kinh và “cùng với mối đe dọa về một liên minh trên thực tế với Hoa Kỳ, chúng cho thấy một sự thay đổi rất lớn trong cách Hà Nội tiếp cận Bắc Kinh”.
Hơn nữa, Vuving lưu ý “xu hướng chung … đã thêm vào nhiều động lực hơn cho nhiều nước, bao gồm Nhật Bản, Philippines, Australia, Ấn Độ và Việt Nam trong việc điều chỉnh tư thế quân sự của mình và việc phối hợp chính sách đối ngoại với nhau để chống lại hiệu quả hơn sự hung hăng của Trung Quốc”.
Trong kết luận của mình, Vuving lập luận rằng trong quá khứ, rất nhiều quốc gia, kể cả Việt Nam và Hoa Kỳ, đã tạo ra một “trần thuỷ tinh” (rào cản không nhìn thấy) và “áp dụng chính sách kềm chế vì sợ khiêu khích con rồng khổng lồ đó”. TQ “khéo léo khai thác nỗi lo sợ này với chiến thuật tầm ăn dâu”. Do cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu, trần thủy tinh đã bị vỡ và TQ đã lộ ra cho thấy là “không có nhiều khác biệt so với các diễn viên khác” trong nỗi lo sợ leo thang. Nói cách khác, Trung Quốc đã bị dao động.
Điều Abuza nêu về việc ra quyết định của VN có thể bị thách thức trên cơ sở tính hợp lý và tính chính xác thực tế.
Thứ nhất, không có ghi nhận công khai nào về việc BCHTW đã họp vào tháng 6. Như một nhà quan sát tại Hà Nội lưu ý trong trao đổi cá nhân, “chưa nghe lời thì thầm nào tại Hà Nội về một cuộc họp như vậy … cũng khó có thể che giấu một cái gì đó lớn như một cuộc họp BCHTW”. Một quan chức cấp cao chính phủ xác nhận vào cuối tháng 7 rằng không có cuộc họp nào của BCHTW được tổ chức kể từ Hội nghị toàn thể lần thứ chín (8-14/5).
Hơn nữa, như một nhà ngoại giao tại Hà Nội ghi nhận riêng với The Diplomat, “nếu thực sự cuộc họp BCHTW tháng 6 ‘nhất trí lên án TQ xâm lược và xâm lấn, tại sao Đảng không đưa ra bất kỳ nghị quyết nào về điều này sau cuộc họp. Điều này không phục vụ một mục đích trấn an công chúng trong nước về việc Đảng xử lý tình hình hay sao”.
Thứ hai, thông tin về chuyến đi Hà Nội của DKT ngày 18/6 tập trung quá hẹp vào tư thế công khai của ông ta. Cho đến khi DKT viếng VN, TQ đã từ chối khoảng ba mươi lần khi VN tiếp xúc để mở các cuộc đàm phán về cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu, còn DKT chỉ đến dự cuộc họp thường niên đã lên lịch từ lâu của Ban chỉ đạo chung về hợp tác song phương. Đây là một chỉ dấu quan trọng của việc TQ sẵn sàng tham gia với Việt Nam.
Đọc kỹ lưỡng các báo cáo chính thức của Bộ Ngoại giao Việt Nam, sẽ thấy rằng khi DKT gặp TBT Trọng thì đã có một thỏa thuận chung để “tiếp tục thảo luận về các cách để giảm bớt căng thẳng và giải quyết các vấn đề trên biển“. Sau chuyến thăm của DKT, các phương tiện truyền thông Trung Quốc miêu tả kết quả với những từ ngữ tích cực hơn rất nhiều so với các phương tiện truyền thông phương Tây mà Abuza trích dẫn. Theo ghi nhận của Vuving, chuyến thăm của DKT chuẩn bị cho một mặc cả ngầm để xuống thang cuộc khủng hoảng.
Thứ ba, Abuza không cung cấp nguồn cho khẳng định của ông rằng Bộ Chính trị đã họp sau chuyến thăm của DKT và lật ngược một nghị quyết của BCHTW lên án TQ xâm lược. BCHTW là cơ quan quyền lực cao nhất của đảng giữa hai kỳ đại hội Đảng toàn quốc. Như đã chứng kiến chính trị trong nước vào năm 2013, BCHTW đã nhiều lần đảo ngược quyết định của Bộ Chính trị.
Được biết, Bộ Chính trị đã họp nhiều lần trong cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu cả trước lẫn sau chuyến thăm của DKT. Trong chuyến thăm Việt Nam vào cuối tháng 7, tác giả đã được nghe các nguồn tin ngoại giao và từ người Việt Nam rằng Bộ Chính trị đã bỏ phiếu với tỉ lệ 9-5 “chấp thuận đề xuất đi tới với việc đưa ra trọng tài quốc tế”.
Các nhà ngoại giao tại Hà Nội theo dõi chặt chẽ các sự kiện này cho rằng phiên họp quyết định của Bộ Chính trị diễn ra vào đầu tháng 7. Tức là trước khi Trung Quốc tuyên bố rút giàn khoan Hải Dương 981.
Không thể biết chắc chắn cá nhân các uỷ viên Bộ Chính trị tại cuộc họp đầu tháng 7 biểu quyết phân chia như thế nào. Việc dò la trong giới quan sát viên Việt Nam và nước ngoài thạo tin tại Hà Nội gợi ra như sau:
Phe đa số như được biết gồm: Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Sinh Hùng, Lê Thanh Hải, Lê Hồng Anh, Tòng Thị Phóng, Nguyễn Xuân Phúc, Nguyễn Thiện Nhân và có khả năng là Phùng Quang Thanh.
Phe thiểu số gồm 5 uỷ viên như được biết gồm Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Phạm Quang Nghị, Ngô Văn Dụ và Đinh Thế Huynh.
Các tin tức cho rằng có hai uỷ viên Bộ Chính trị bỏ phiếu trắng là không chính xác. Đầu tháng 7 hai uỷ viên Bộ Chính trị đã đi nước ngoài và không thể tham dự cuộc họp. Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang thăm Đức từ ngày 3-4/7, trong khi Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân thăm Argentina và Chile từ 30 /6 – 5/7.
Thứ tư, Abuza quả quyết rằng chuyến đi của Ngoại trưởng Minh sang Mỹ đã bị hủy bỏ và uỷ viên Bộ Chính trị Phạm Quang Nghị đã được cử thay vào. Chuyến đi của ông Minh đã bị dời lại tới tháng 9. Hiện nay, Đại sứ quán Việt Nam tại Washington và Bộ Ngoại giao đang thảo luận về thời gian của chuyến đi của ông Minh.
Chuyến đi của Phạm Quang Nghị theo báo cáo là để đánh bóng khả năng đối ngoại của ông và cung cấp một thăm dò về hiện trạng mối quan hệ với Mỹ trước chuyến thăm của bộ trưởng Minh.
Có vẻ như không chắc rằng Bộ Chính trị gác lại quyết định phải có hành động pháp lý chống lại TQ hay Việt Nam hạ giọng trong đòi hỏi Bộ Quy tắc ứng xử có tính ràng buộc ở biển Đông. Ngày 26/7 trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức một hội nghị quốc tế các chuyên gia cấp cao về “Những vấn đề pháp lý liên quan đến việc Trung Quốc đặt giàn khoan dầu Hải dương thạch du 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam”. Những người tham dự phía Việt Nam lưu ý riêng rằng các khuyến nghị của hội nghị này sẽ được chuyển tới các nhà lãnh đạo cấp cao trước cuộc họp của BCHTW dự kiến một thời gian nào đó trong tháng 8.
Việt Nam vẫn toàn tâm với Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) và ủng hộ cho một Bộ Quy tắc ứng xử (COC) có tính ràng buộc ở biển Đông. Năm ngoái, TQ đã quay một góc 180° và đồng ý gặp với các quan chức ASEAN để thảo luận về COC trong khuôn khổ các cuộc thảo luận về việc thực thi Tuyên bố ứng xử của các bên ở biển Đông. Không chắc là Việt Nam giảm bớt sự ủng hộ cho COC để cầu cạnh TQ. Hai bên đều dốc lòng với tiến trình ngoại giao. Việt Nam có thực sự tin hay không tin rằng COC sẽ được đàm phán là vấn đề khác. Theo một quan chức cấp cao Việt Nam nói với The Diplomat, “chuyến đi quan trọng hơn đích đến”.
Các cuộc họp hàng năm sắp diễn ra của các Bộ trưởng ngoại giao ASEAN, Diễn đàn khu vực ASEAN và các cuộc họp liên quan giữa ASEAN và các đối tác đối thoại của nó đều sẽ thảo luận về cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu và từ chỗ đó sẽ đi tới đâu. Rõ ràng là TQ sẽ phải chịu sức ép ngoại giao cao để kềm lại hành vi khiêu khích của mình ở biển Đông.
Cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu đã chứng minh rằng Việt Nam có khả năng đứng lên chống lại TQ và thể hiện quyết tâm. Khó có khả năng VN tự trói tay với bất kỳ lựa chọn nào kể cả hành động pháp lý chống lại Trung Quốc. Chính vì lợi ích của Việt Nam để giữ lựa chọn này làm dự phòng.
Khả năng các nhà lãnh đạo thận trọng của Việt Nam bị quật ngã dưới sức ép của TQ cũng hiếm như việc họ chao đảo bước vào một liên kết với Hoa Kỳ. Việt Nam và TQ có nhiều công việc ngoại giao phải làm để sửa chữa quan hệ song phương bị hư hại và khôi phục lòng tin chiến lược của họ. Việt Nam cũng có khả năng dấn sâu hơn vào quan hệ đối tác toàn diện với Hoa Kỳ.
Có nhiều khả năng chính sách đối ngoại Việt Nam sẽ liên tục hơn là thay đổi. Việt Nam sẽ tiếp tục vận dụng Nghị quyết 8 BCHTW để đấu tranh và hợp tác với các cường quốc nhằm đẩy mạnh lợi ích quốc gia của mình và theo đuổi cách tiếp cận đa phương trong quan hệ đối ngoại của mình.