Nguyễn Quang Dy. 12-12-2017
Kết thúc năm
2017, Việt Nam vẫn trong vòng xoáy của các sự kiện bất thường và hệ quả bất
định mà nguyên nhân vừa do khách quan vừa do chủ quan, vừa do thiên tai vừa do
nhân họa. Nhưng có một nghịch lý đáng buồn là rủi ro đang ập đến cùng lúc như
“họa vô đơn chí”. Trong khi Việt Nam ngày càng cô đơn, sức lực cạn kiệt, phải
đối phó với nhiều thách thức, thì tay phải và tay trái vẫn choảng nhau, thậm
chí tự bắn vào chân mình.
Các sự
kiện bất thường
Ngay sau khi
Donald Trump trở thành tổng thống Mỹ, giấc mộng TPP đã tan thành mây khói. Để
cứu vãn TPP tồn tại như một hiệp định “vịt què” (vì “méo mó có hơn không”), 11
thành viên còn lại đã cố gắng duy trì khuôn khổ TPP-11 (hay CPTPP). Họ vẫn nuôi
hy vọng một ngày nào đó ông Trump có thể quay lại TPP (hoặc 4 năm nữa ông ấy có
thể thất cử). Nhưng câu chuyện TPP-11 cũng không thuận buồm xuôi gió khi thủ
tướng Canada (Trudeau) vì bất đồng đã bỏ họp TPP-11 bên lề APEC Đà Nẵng, suýt
nữa làm hỏng cuộc chơi. Dù câu chuyện TPP-11 có thành công, thì giá trị kinh tế
đối với Việt Nam cũng không lớn lắm.
Với số phận
không may của TPP (và nay là TPP-11), Việt Nam chỉ còn hy vọng vào hiệp định
EVFTA (với EU). EVFTA cũng là hiệp định tự do thương mại “thế hệ mới”, có phạm
vi cam kết sâu rộng và cao nhất từ trước tới nay đối với Việt Nam. Đàm phán
EVFTA đã chính thức kết thúc từ 1/12/2015 và văn bản hiệp định đã được công bố
(1/2/2016). Hiện nay, các nước thành viên EVFTA đang rà soát lại văn bản hiệp
định trước khi ký kết. Dự kiến EVFTA sẽ có hiệu lực từ năm 2018, nếu tất cả 28
nước thành viên đều đồng thuận.
Nhưng vụ bắt cóc
Trịnh Xuân Thanh tại Berlin (như phía Đức thông báo) đã làm cho quan hệ
Viêt-Đức bất ngờ rơi vào khủng hoảng. Chính phủ Đức đã quyết định tạm đình chỉ
quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam, và sẽ áp dụng các biện pháp mạnh hơn
nếu chính phủ Việt Nam không đáp ứng các yêu cầu của họ. Không loại trừ khả
năng chính phủ Đức phủ quyết EVFTA nếu hai bên vẫn không hòa giải được về vụ
bắt cóc Trịnh Xuân Thanh (cũng như về vấn đề nhân quyền). Điều đó có nghĩa là
hy vọng vào EVFTA cũng như TPP như cái phao cứu sinh cho triển vọng kinh tế
Việt Nam sẽ trở thành “xôi hỏng bỏng không”.
Nếu ông Trump bỏ
rơi TPP vì “America first”, thì ông Trudeau cũng suýt nữa làm hỏng TPP-11 vì
“Canada First”. Nhưng còn
lãnh đạo Việt Nam đang tự đánh mất EVFTA vì lý do gì? Tại sao phải đánh đổi
EVFTA lấy “con ruồi” Trịnh Xuân Thanh? Trong khi các nước liên quan đều bị thua
thiệt vì những sự kiện bất thường, thì chỉ có Trung Quốc là “ngư ông đắc lợi”.
Dù vô tình hay hữu ý, thì đó là hệ quả vô cùng tai hại do tầm nhìn thiển cận.
Bức
tranh toàn cảnh bất ổn
Những sự kiện
bất thường kể trên xảy ra trong bối cảnh bức tranh kinh tế-tài chính của Việt
Nam đầy bất ổn, ngân sách thu không đủ chi, nợ công đã vượt trần cho phép. Có
lẽ vì vậy mà thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã thừa nhận tại một hội nghị cuối năm
2016: “Nợ công sát trần cho phép và nếu tính đủ thì có thể đã vượt trần”
(là 65% GDP). Tại một hội nghị tổng kết ngành tài chính đầu năm 2017, ông Phúc
còn cảnh báo, “nếu không chấm dứt tình trạng này, sự sụp đổ của nền tài
khóa quốc gia không thể tránh khỏi” (TTXVN, 6/1/2017).
Theo chuyên gia
kinh tế Lê Ðăng Doanh, nếu tính đủ các khoản nợ của các bộ ngành, địa phương,
và doanh nghiệp nhà nước, thì nợ công của Việt Nam lên đến 220 tỷ USD (bằng
110-120% GDP). Nhưng ông Vũ Quang Việt (chuyên gia thống kê của LHQ) cho rằng
nếu tính theo cách tính của LHQ thì nợ công của Việt Nam lên đến 300 tỷ USD
(bằng 150% GDP). Hàng năm Việt Nam phải trả nợ đến hạn khoảng 20 tỷ USD (năm
2015) và 12 tỷ USD (năm 2016), nên nhiều khi phải vay nợ mới để trả nợ cũ (hay
còn gọi là “đảo nợ”).
Trong khi nguồn
viện trợ ODA bắt đầu cạn (từ năm 2017), thì nguồn kiều hối cũng giảm dần. Nếu
trong năm tài khóa 2016 nguồn ODA của Nhật cam kết dành cho Việt Nam là 187,1
tỷ yên, (giải ngân 175,6 tỷ yên) thì năm tài khóa 2017, nguồn ODA của Nhật chỉ
còn 130 tỷ yên (gần 1,2 tỷ USD). Nếu nguồn kiều hối năm 2015 là 13,5 tỷ USD thì
năm 2016 chỉ còn 9 tỷ USD (giảm 33%). Theo dự báo của “Pew Research Center”
(Mỹ), căn cứ vào số liệu 6 tháng đầu năm 2017, kiều hối từ Mỹ về Việt Nam năm
2017 chỉ khoảng 5,4 tỷ USD.
Theo Tổng cục
Thống kê, dự toán thu ngân sách (năm 2016) khoảng 47,08 tỷ USD, trong khi chi
khoảng 57,08 tỷ USD (thâm hụt 10 tỷ USD). Các nguồn thu nội địa chiếm khoảng 30,65 tỷ USD, trong
khi xuất nhập khẩu chiếm khoảng 5,89 tỷ USD, dầu thô chiếm khoảng 1,55 tỷ USD.
Triển vọng nguồn thu từ dầu khí đang cạn kiệt và vô vọng, sau khi Việt Nam yêu
cầu Repsol phải ngừng khoan tại lô 136-03 (24/7/2017) do Trung Quốc đe dọa tấn
công Trường Sa, và sau đó ExxonMobil đã hoãn triển khai mỏ khí Cá voi Xanh
(10/11/2017).
Theo nguồn Bộ
Nội vụ, ngân sách nhà nước đang phải nuôi một bộ máy hành chính khổng lồ,
khoảng 2,8 triệu cán bộ, công chức, viên chức. Nếu cộng cả đối tượng nghỉ hưu
và các đối tượng khác hưởng lương và trợ cấp từ ngân sách nhà nước, thì con số
này lên tới 7,5 triệu người, chiếm 8,3% dân số. Nếu cộng toàn bộ số người hưởng
lương và trợ cấp từ ngân sách thì theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan con số này lên tới 11 triệu
người. Không có ngân sách nào nuôi nổi một bộ máy ăn lương lớn đến như vậy.
Theo Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VERP), kinh phí cho quỹ lương là
71,000 tỷ VNĐ (bằng 1,7% GDP).
Để so sánh, nước Mỹ có diện tích
gấp khoảng 30 lần và dân số gấp khoảng 4 lần nước ta, nhưng số công chức của họ
chỉ có 2,1 triệu. Trung Quốc lớn như vậy, nhưng số công chức của họ cũng chỉ
chiếm 2,8% dân số (của ta là 8,3% dân số). Trong khi 160 người dân Mỹ nuôi một
công chức, thì 40 người dân Việt Nam phải nuôi một công chức. Đó là chưa kể
người dân Việt Nam phải gánh chịu tình trạng quan liêu, sách nhiễu, vòi vĩnh,
tham nhũng của một bộ phận “không nhỏ” trong số 2,8 triệu công chức, bên cạnh
tình trạng kém hiệu quả của đầu tư công và dịch vụ công. Hệ quả là người dân và
doanh nghiệp phải chịu gánh nặng chi phí ngày càng cao, như giá xăng dầu và giá
điện (mới tăng 6%), phí cầu đường (với 88 trạm BOT) và nhiều thứ chi phí, “đóng
góp” khác theo “sáng kiến” tận thu của các cơ quan nhà nước.
Câu
chuyện thép và nhôm
Trong khi “quả
bom Formosa” chưa được tháo gỡ thì đến 4/2017, cả nước lại ồn ào về một siêu dự
án khác là khu liên hợp thép Hoa Sen Cà Ná – Ninh
Thuận với tổng vốn đầu tư 10,6 tỷ USD được tỉnh Ninh Thuận và
Tập đoàn Hoa Sen đề xuất triển khai, và được bộ trưởng bộ
Công thương ủng hộ. Người ta vẫn còn nhớ câu nói nổi tiếng của ông Lê Phước Vũ:
“ngu gì không làm thép”, và của bộ trưởng Trần Tuấn Anh, “không sợ
trách nhiệm nếu thép Cà ná xảy ra hệ lụy”. (Ai cũng biết ông Lê Phước Vũ
là anh em cọc chèo với ông Trần Tuấn Anh). Đến nay câu chuyện thật như đùa này
hầu như đã trôi vào quên lãng. Nhưng lúc đó nếu chính phủ hay ngân hàng (đang
chết dở vì nợ xấu) cứ bảo lãnh cho Tập đoàn Tôn Hoa Sen vay vốn nước ngoài
(chắc sẽ vay của Trung Quốc) để huy động đủ 10 tỷ USD như cam kết đầu tư vào
siêu dự án này, thì chưa biết điều gì sẽ xảy ra. Chỉ biết rằng, nếu triển khai
dự án này thì chắc chắn nhà thầu và thiết bị, công nghệ vẫn là của Trung Quốc
(như dự án Formosa).
Cũng may, trước
sự phản đối quyết liệt của dư luận, vì “Hoa Sen” có triển vọng trở thành một
“Formosa thứ hai”, ngày 15/4/2017 thủ tướng đã yêu cầu tạm dừng dự án khu liên
hợp thép Hoa Sen Cà Ná để làm rõ một số vấn đề liên quan tới
môi trường, công nghệ và thiết bị. Công bằng mà nói, quyết định “tạm dừng” dự
án thép Hoa Sen Cà Ná và dự án điện hạt nhân tại
Ninh Thuận đã tránh cho đất nước này một thảm họa. Nếu họ sản xuất thép thật,
thì sẽ hủy hoại nốt môi trường (do ô nhiễm). Nếu họ sản xuất thép giả thì sẽ
hủy hoại môi trường kinh doanh (do gian lận thương mại để tái xuất thép thừa ế
của Trung Quốc).
Đến nay thì câu
chuyện về các siêu dự án thép (cũng như nhiệt điện chạy than và bauxite) đã lộ
rõ những góc khuất liên quan đến thỏa thuận bất minh với đối tác Trung Quốc. Họ
có thể biến Việt Nam thành bãi rác vì thiết bị, công nghệ lạc hậu của họ thải
ra, hoặc thành sân sau để họ tái xuất hàng hóa ế thừa sang Mỹ và Tây Âu nhằm
tránh thuế. Theo bộ Thương mại Mỹ, “90% sản phẩm thép từ Việt Nam nhập sang
Mỹ có xuất xứ từ Trung Quốc”. Gần đây Bộ Công thương Việt Nam cũng thừa nhận “có 34 mẫu hàng thép
của Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ trùng với mẫu hàng thép mà Việt Nam nhập khẩu từ
Trung Quốc”. Theo ông Lê Đăng Doanh, không chỉ có thép, mà tất cả các sản
phẩm từ Trung Quốc đều có giá rẻ “bất thường”.
Theo Reuters,
một đại diện của Cộng đồng Châu Âu nói rằng họ đã phát hiện thép Trung Quốc
đang được vận chuyển theo đường vòng đi qua Việt Nam để tránh thuế. Ngày
5/12/2017 Bộ Thương Mại Mỹ đã quyết định đánh thuế nặng các sản phẩm thép của
Việt Nam có xuất xứ từ Trung Quốc, sau khi phát hiện nguồn thép này đi vòng qua
Việt Nam sang Mỹ nhằm tránh thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp. Bộ Thương
Mại Mỹ đã bắt đầu đánh thuế hơn 500% mặt hàng thép cuộn nguội và hơn 200% mặt
hàng thép không gỉ với nguyên liệu có nguồn gốc từ Trung Quốc. Như vậy, thép
cuộn nguội Việt Nam sẽ chịu mức thuế 531%, trong khi thép không gỉ sẽ chịu mức
thuế 238%. Đây là mức thuế được cho là “cao hơn mức cần thiết” để chặn các sản
phẩm thép gian lận vào thị trường Mỹ. Theo ông Lê Đăng Doanh, đây là điều “rất
đáng tiếc” và chắc chắn sẽ tác động tiêu cực đến toàn bộ ngành thép Việt Nam (US
hits Vietnam with massive duties over Chinese steel, Jethro Mullen,
CNN, December 6, 2017).
Câu chuyện không
phải chỉ có thép mà còn cả nhôm (và một số mặt hàng khác) mà Trung Quốc đang
lợi dụng Việt Nam làm sân sau để họ tái xuất sang Mỹ và Tây Âu nhằm tránh thuế.
Đây là cuộc “chiến tranh du kích” mà Việt Nam là bên chịu thiệt hại kép, vì
nhiều doanh nghiệp Việt “khôn nhà dại chợ”, chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt,
còn các doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng thì bị vạ lây. Câu chuyện này không phải
bây giờ mới bắt đầu, mà trong vòng ba năm gần đây, hàng loạt sản phẩm của Việt
Nam đã liên tục bị các nước trong và ngoài khu vực ASEAN kiện vì trốn thuế
chống bán phá giá, trong đó có những sản phẩm Viêt Nam chưa sản xuất được. Cách
đây ba năm, Cơ quan chống gian lận thương mại thuộc Ủy ban châu Âu (OLAF) đã
từng sang Việt nam làm việc với VSA do nghi ngờ sản phẩm tôn mạ từ Việt Nam
xuất sang EU có dấu hiệu gian lận nguồn gốc xuất sứ. Cụ thể, OLAF đã nghi ngờ sản phẩm tôn mạ được xuất
đi từ Việt Nam là của các doanh nghiệp Trung Quốc đứng đằng sau.
Cuối năm 2016,
báo Wall Street Journal có bài phóng sự điều tra về 500.000 tấn nhôm nguyên
liệu (để sản xuất nhôm) đã được chuyển từ San José Iturbide (Mexico) đến Bà
Rịa-Vũng Tàu (Việt Nam). Theo điều tra của WSJ, ông chủ của kho nhôm này có thể
là Liu Zhongtian, một tỷ phú Trung Quốc (chủ tịch Công ty nhôm China Zhongwang
Holdings). Hành trình vận chuyển kho nhôm khổng lồ này từ sa mạc Mexico tới
Việt Nam trùng hợp với sự gia tăng xuất khẩu kim loại này vào Việt Nam từ hai
nước Trung Quốc và Mỹ. Ứớc tính kho nhôm khổng lồ này chiếm tới 14% tổng lượng
hàng tồn kho nhôm trên toàn thế giới. Kể từ năm 2015, khoảng 1,7 triệu tấn nhôm
ép trị giá 5 tỷ USD đã được nhập cảng Việt Nam từ Mexico, Trung Quốc và Mỹ.
Theo Tuổi Trẻ (14/12/2016), “Việt Nam trở thành kho nhôm
của thế giới”.
Nếu kho nhôm
khổng lồ nói trên được bán ra thị trường thì sẽ tác động lớn đến giá nhôm toàn
cầu. Vì vậy, Việt Nam có thể bị vạ lây nếu Mỹ khởi kiện. Nhiều người biết công
ty “Global Vietnam Aluminum Co VN” chỉ là công cụ để nhập thép/nhôm vào Việt
Nam nhằm tái xuất sang Mỹ với nhãn hiệu “made in VN”. Theo Vietnamnet
(3/5/2017) Bộ Công thương đã có công văn gửi bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
Chính, UBND tình Bà Rịa-Vũng Tàu liên quan đến việc kiểm tra kho nhôm khổng lồ
nghi có nguồn gốc từ Trung Quốc.Nhưng đó chỉ là một động tác vuốt đuôi chiếu lệ
vì đã “quá muộn” (too little too late). Trong câu chuyện dài nhiều tập về thép và nhôm, Trung
Quốc vẫn là “ngư ông đắc lợi”, trong khi Việt Nam thiệt đơn thiệt kép và mất cả
chủ quyền, chỉ để cho một vài nhóm làm giàu bất minh.
Lối thoát nào cho Việt nam
Để tránh hàng rào thuế quan của Mỹ
(cũng như Tây Âu, Nhật, ASEAN), các doanh nghiệp Trung Quốc tất nhiên sẽ tìm
cách tuồn thép và nhôm (cũng như các mặt hàng khác như may mặc, giày dép, điện
tử) qua nước thứ ba như Việt nam. Có lẽ Việt Nam là địa chỉ lý tưởng (như
entrepot) vì gần, luật lệ lỏng lẻo, lại được Mỹ ưu đãi thuế quan. Nhưng nếu
Việt Nam tiếp tay cho Trung Quốc tái xuất hàng hóa nhằm tránh thuế, thì sẽ là
tai họa. Nếu họ thu thập
đủ chứng cứ Việt Nam xuất khẩu thép và nhôm của Trung Quốc, Mỹ và các nước khác
có thể phạt Việt Nam và loại ra khỏi cuộc chơi (TPP hoặc EVFTA). Như vậy, câu
chuyện TPP (hay TPP-11) và EVFTA mà Việt Nam đang theo đuổi sẽ trở thành vô
nghĩa.
Theo một số chuyên gia, Việt Nam cần
ưu tiên ngăn chặn các hiện tượng đó trong mấy ngành mà Việt Nam có lợi thế so
sánh (như may mặc, giày dép) để khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài chuyển
cả phân khúc sản xuất các sản phẩm trung gian vào Việt Nam, nâng cao năng lực
các ngành phụ trợ và vị thế của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu (global
supply chain). Đối với ngành thép và nhôm, Việt Nam không đủ sức cạnh tranh với
Trung Quốc về xuất khẩu, thì phải ngăn chặn họ chuyển các thiết bị, công nghệ
cũ và bẩn vào Việt Nam làm ô nhiễm môi trường, tiêu hao năng lượng, như dự án
Formosa (hay Hoa Sen). Trước mắt, hãy để Mỹ áp thuế cao cho thép xuất khẩu của
Việt Nam cũng như của Trung Quốc vì không tránh được, nhưng về lâu dài có thể
giúp Việt Nam thoát được vấn nạn nói trên. Vì Trung Quốc là một đối tác có
nhiều lợi thế, nên muốn “thoát Trung” nội lực phải đủ mạnh.
Một số chuyên gia cho rằng các BOT
về nhiệt điện, đặc biệt là nhiệt điện chạy bằng than, còn nguy hiểm hơn cả BOT
về cầu đường. “Quy hoạch Điện VII” (với 18 nhà máy nhiệt điện) sẽ đặt Việt Nam
trước nguy cơ khủng hoảng kép, vừa hủy hoại môi trường và sức khỏe (do ô
nhiễm), vừa hao tổn nguồn vốn đầu tư do giá than tăng làm mất hàng tỷ USD mỗi
năm (vì phải nhập than), và làm mất lòng tin của dân (vì quy hoạch sai mà vẫn
cứ làm). Trong khi các
nước khác, kể cả Trung Quốc, đã bỏ nhiệt điện chạy bằng than, thì Việt Nam lại
đâm đầu vào làm, chỉ vì mối lợi chi phí đầu tư thấp trước mắt mà quên mất hiểm
họa về lâu dài.
Thực tế đã chứng minh rút cục chi
phí đầu tư điện chạy than không thấp, nhất là khi chọnnhà thầu Trung Quốc với thiết bị, công nghệ lạc
hậu. Việt Nam đang
trở thành cái rốn ô nhiễm môi trường của thế giới, do nhập công nghệ cũ mà nước
khác thải ra. Môi trường còn thì quốc gia còn, môi trường chết thì quốc gia
cũng hết. Các quan chức và người giàu có thể chạy sang nước khác sinh sống,
nhưng còn người dân chạy đâu? Thế giới đang chuyển sang dùng các nguồn
năng lượng tái tạo (như điện mặt trời, gió, sóng, địa nhiệt) với chi phí đầu tư
ngày càng giảm nhờ phát triển công nghệ. Việt Nam cần chấm dứt ngay đầu tư bất
chấp hệ quả môi trường, và chuyển mạnh sang phát triển các nguồn năng lượng tái
tạo mà Việt Nam có tài nguyên dồi dào với hàng trăm dự án của Mỹ, Nhật, Châu Âu
đang đăng ký tham gia.
Thay lời kết
Nguyên nhân chính dẫn đến các rủi ro
vĩ mô như “họa vô đơn chí” là do thể chế lỗi thời, chỉ có lợi cho các nhóm lợi
ích thân hữu đang tìm cách vơ vét đến tận cùng những nguồn lực đang cạn kiệt.
Có người nhận xét rằng Việt Nam đang vuốt ve khu vực tư nhân, nhưng “trên rải thảm, dưới rải đinh”,
trong khi các quan chức và doanh nghiệp nhà nước đang chạy đua nước rút như
“những chuyến tàu vét trước khi hạ cánh” (hay “hoàng hôn nhiệm kỳ”).
Ngành giáo dục và y tế cũng không ngoại lệ: Vụ bê bối về công ty dược Pharma càng chứng tỏ họ “ăn của
dân không từ một cái gì”. Quy định 102-QĐ/TW (15/11/2017) về xử
lý kỷ luật đảng viên vi phạm, cũng như Nghị quyết Hội nghị TW 4 về “27 biểu
hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa” (10/2016) không thay đổi được thực trạng nói
trên. Tham nhũng như con bạch tuộc có nhiều vòi. Bắt được Trịnh Xuân Thanh này
thì còn nhiều Trịnh Xuân Thanh khác. Xử được Đinh La Thăng này thì còn Đinh La
Thăng khác. Nếu không đổi
mới thể chế để kiểm soát quyền lực tha hóa, thì chống tham nhũng cũng giống như
trò “hàn xoong hàn nồi” và “bắt cóc bỏ đĩa”.