Biến cố ở Venezuela chắc chắn còn chuyển động, ít
nhiều có tác động đến Việt Nam. Theo tôi nghĩ, cần cung cấp cho độc giả VN tư
liệu về Venezuela. Dưới đây là toàn văn tư liệu được đăng trên Bách khoa toàn
thư mở Wikipedia.
Để đọc về cuộc khủng hoảng Tổng thống đang diễn ra tại đây, xem Khủng hoảng tổng thống Venezuela 2019.
Cộng
hòa Bolivariana Venezuela
|
||||
República
Bolivariana de Venezuela (tiếng
Tây Ban Nha)
|
||||
|
||||
|
||||
Venezuela (tên chính thức là Cộng hòa
Bolivariana Venezuela, tiếng Tây Ban Nha: República Bolivariana de
Venezuela, [reˈpuβlika
βoliβaˈɾjana ðe βeneˈswela], tên gọi trong tiếng Việt: Cộng hòa Bô-li-va-ri-a-na
Vê-nê-du-ê-la[4], đôi khi là Vê-nê-xu-ê-la) là một
quốc gia thuộc khu vực Nam Mỹ. Venezuela tiếp giáp với Guyana về phía đông, với Brasil về phía nam, Colombia về phía tây và biển Caribbean về phía bắc. Nhiều hòn đảo nhỏ ngoài khơi
biển Caribbean cũng thuộc chủ quyền của Venezuela.
Thuộc khu vực nhiệt đới, khí hậu Venezuela đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều
loài sinh vật phát triển với nhiều khu bảo tồn thiên nhiên hoang dã. Diện tích
nước này là 916.445 km², dân số khoảng 28 triệu người.
Lãnh thổ hiện được gọi là Venezuela đã bị Tây
Ban Nha xâm chiếm vào năm 1522 trong bối cảnh sự kháng cự của người dân bản
địa. Năm 1811, nó trở thành một trong những vùng lãnh thổ Mỹ-Tây Ban Nha đầu
tiên tuyên bố độc lập, tuy vậy chỉ giành được toàn bộ lãnh thổ cho đến năm
1821, khi Venezuela là một bộ phận của nước cộng hòa liên bang Gran Colombia.
Venezuela giành được độc lập hoàn toàn như một quốc gia vào năm 1830. Trong thế
kỷ 19, Venezuela phải chịu bất ổn chính trị và chuyên quyền, vẫn bị chi phối
bởi caudillos (những thủ lĩnh về quân sự) cho đến giữa thế kỷ 20. Từ năm 1958,
đất nước này đã có một loạt các chính phủ dân chủ. Những cú sốc kinh tế trong
những năm 1980 và 1990 đã dẫn đến một số cuộc khủng hoảng chính trị, bao gồm
các cuộc bạo loạn Caracazo chết chóc năm 1989, hai cuộc đảo chính đã cố gắng
vào năm 1992 và luận tội Tổng thống Carlos Andrés Pérez vì tham ô các quỹ công
cộng vào năm 1993. Sự sụp đổ niềm tin vào hiện tại các đảng đã chứng kiến
cuộc bầu cử năm 1998 của cựu sĩ quan sự nghiệp liên quan đến đảo chính Hugo
Chávez và khởi động Cách mạng Bolivar. Cuộc cách mạng bắt đầu với một Quốc hội
lập hiến năm 1999, nơi một bản Hiến pháp mới của Venezuela được lập ra. Hiến
pháp mới này chính thức đổi tên quốc gia thành Cộng hòa Bolivar Venezuela
(tiếng Tây Ban Nha: República Bolivariana de Venezuela).
Venezuela là một trong những quốc gia có tốc
độ đô thị hóa cao nhất Mỹ Latinh. Đa phần dân cư Venezuela tập trung sinh sống
tại những thành phố lớn phía bắc. Caracas là thủ đô và đồng thời cũng là thành phố
lớn nhất Venezuela. Venezuela đã từng nổi tiếng khắp thế giới với thiên nhiên tươi đẹp, nguồn dầu mỏ dồi dào và những nữ hoàng sắc đẹp đoạt nhiều giải cao tại những kỳ thi
quốc tế. Tuy nhiên đến những năm gần đây, sự bất ổn của giá dầu mỏ là nguyên
nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về mọi mặt đối với Venezuela, gây
lạm phát, suy thoái kinh tế, thiếu hụt các mặt hàng cơ bản cho người dân và một
sự tăng mạnh của tỷ lệ thất nghiệp, nghèo đói, bệnh tật, tử vong trẻ em, suy
dinh dưỡng cũng như tội phạm tại quốc gia này [5][6][7][8]
Địa lý [sửa | sửa
mã nguồn]
Bài chi tiết: Địa lý Venezuela
Venezuela nằm ở phía bắc Nam Mỹ, tiếp giáp với biển Caribbean về phía bắc. Nước này có đường bờ biển
dài hơn 2800 km, khiến ảnh hưởng của biển đối với khí hậu Venezuela tương
đối lớn.
Địa hình Venezuela có thể chia làm ba vùng
chính:
·
Vùng Tây Bắc: đây là nơi có độ cao lớn nhất của Venezuela. Những
dải núi cực đông bắc của dãy Andes lấn vào lãnh thổ Venezuela và mở rộng ra
tận đường bờ biển phía bắc của nước này. Đây là nơi tọa lạc của đỉnh núi cao
nhất Venezuela, đỉnh Pico Bolívar cao 4979 m.
·
Vùng Trung tâm: là vùng có những đồng bằng rộng lớn. Các đồng
bằng bằng phẳng với đất đai màu mỡ trải dài từ biên giới với Colombia ở phía tây đến tận vùng châu thổ sông Orinoco.
·
Vùng Nam: phần lớn vùng này là Cao nguyên Guiana với độ cao
trung bình. Thác Angel, thác nước cao nhất thế giới nằm tại khu vực
này.
Tuy nhiên, do sự đan xen phức tạp của các dạng
địa hình, Venezuela có thể được chia làm 10 khu vực địa lý khác nhau, tạo điều
kiện cho sự phát triển của nhiều hệ sinh thái với các loài động thực vật vô
cùng đa dạng, trong đó có nhiều loài động thực vật đặc hữu cua riêng đất nước
này. Venezuela có nhiều khu bảo tồn thiên nhiên với cảnh quan đa dạng.
Mặc dù hầu như nằm trọn trong khu vực nhiệt đới, khí hậu Venezuela lại thay đổi khác nhau
giữa các vùng. Tại những vùng đồng bằng, nhiệt độ và độ ẩm thường cao với nhiệt độ
trung bình năm khoảng 28 °C, trong khi ở những vùng đồi núi cao thì nhiệt
độ trung bình chỉ ở mức 8 °C. Lượng mưa cũng thay đổi từ mức 430 mm ở
vùng bán hoang mạc tây bắc lên đến hơn 1000 mm ở vùng châu thổ Orinoco.
Nguồn gốc tên gọi
[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Tên gọi Venezuela
Tên gọi Venezuela được bắt
nguồn từ chuyến hải trình của nhà vẽ bản đồ Amerigo Vespucci cùng với nhà thám hiểm Alonso de Ojeda
đến bờ biển tây bắc vịnh Venezuela năm 1499. Khi đến bán đảo Guajira, Vespucci
đã bắt gặp những ngôi nhà lá của thổ dân da đỏ được dựng trên mặt nước và khiến
ông liên tưởng đến thành phố Venice (tiếng Italia: Venezia). Ông đã đặt tên cho
vùng đất này là Venezuola, trong tiếng Italia có nghĩa là "Venice
nhỏ". Trong tiếng Tây Ban Nha, cụm từ zuela dùng với vai
trò giảm nghĩa tương tự như zuola trong tiếng Ý được ghép thay
vào để hình thành cái tên Venezuela.
Bên cạnh đó, nhà địa lý người Tây Ban Nha
Martin Fernandez de Enciso, một thủy thủ đoàn của Ojeda đã nêu trong tác
phẩm Summa de Geografía của mình rằng những thổ dân da đỏ tại
vùng này tự gọi mình là Veneciuela, và cái tên Venezuela được bắt
nguồn từ tên gọi đó. Song, câu chuyện của Vespuccia lại được chấp nhận rộng rãi
hơn cả về nguồn gốc tên gọi đất nước Venezuela.
Lịch sử
[sửa | sửa
mã nguồn]
Bài chi tiết: Lịch sử Venezuela
Những bằng chứng khảo cổ cho thấy, con người
đã định cư tại vùng đất Venezuela từ 13.000 năm trước công nguyên. Những mũi
giáo săn bắn của người bản địa đã được xác định có niên đại trong khoảng từ
13000 đến 7000 năm về trước. Khi người Tây Ban Nha khám phá ra vùng đất này, những bộ lạc
thổ dân da đỏ như người Mariche đã đứng lên chống lại.
Tuy nhiên những cuộc khởi nghĩa của người da đỏ nhanh chóng thất bại và họ dần
dần bị người Tây Ban Nha tiêu diệt.
Năm 1522, người Tây Ban Nha bắt đầu thiết lập
các thuộc địa đầu tiên ở Venezuela. Thời gian đầu,
miền đông Venezuela được sát nhập vào một thuộc địa lớn với tên gọi New
Andalusia. Đến đầu thế kỷ XVIII, Venezuela lại được sát nhập vào thuộc
địa New Granada.
Dưới sự thống trị hà khắc của phong kiến Tây
Ban Nha, nhân dân Venezuela đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh nhưng không thành
công. Ngày 5 tháng 7 năm 1811, nước Cộng hòa Venezuela tuyên
bố độc lập. Francisco de Miranda, một chỉ huy từng tham gia Cách mạng Pháp và chiến tranh giành độc lập Bắc Mỹ quay
trở về lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân Venezuela. Năm 1812, quân Tây Ban
Nha quay trở lại tấn công, Miranda bị bắt về Tây Ban Nha và chết trong ngục.
Cuộc đấu tranh sau đó vẫn tiếp tục với nền Cộng hòa thứ hai được thành lập vào
ngày 7 tháng 8 năm 1813 nhưng rồi cũng nhanh chóng sụp
đổ.
Dưới sự lãnh đạo của người anh hùng dân
tộc Simon Bolivar, Venezuela đã giành được độc lập với chiến
thắng Carabobo vào ngày 24 tháng 6 năm 1821. Quốc hội mới của New Granada
trao quyền lãnh đạo quân đội cho Bolivar và ông đã giải phóng thêm nhiều vùng
đất mới, thành lập nên nước Đại Colombia (Gran Colombia) bao gồm:
Venezuela, Colombia, Ecuador và Panama ngày nay. Venezuela trở thành một phần
của Đại Colombia cho đến năm 1830, khi nước này tách ra để thành lập một quốc
gia mới.
Thế kỷ XIX đánh dấu một giai đoạn đầy biến động của
lịch sử Venezuela với những cuộc khủng hoảng chính trị và chế độ độc tài quân
sự. Nửa đầu thế kỷ XX, các tướng lĩnh quân đội vẫn kiểm soát nền
chính trị của Venezuela mặc dù cũng chấp nhận một số cải cách ôn hòa và thúc
đẩy kinh tế phát triển. Sau khi nhà độc tài Juan Vicente Gomez qua đời vào năm
1935, những phong trào dân chủ tại Venezuela cuối cùng đã loại bỏ sự thống trị
của quân đội vào năm 1958 và tổ chức những cuộc bầu cử tự do.
Dầu mỏ được phát hiện tại Venezuela đã mang lại
sự thịnh vượng cho nền kinh tế đất nước, thu nhập quốc dân được nâng cao. Đến
sau Chiến tranh thế giới thứ hai, những dòng người nhập cư từ Nam Âu như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ýcũng như những nước Mỹ Latinh nghèo hơn đã khiến xã hội của
Venezuela trở nên vô cùng đa dạng.
Giá dầu mỏ sụt giảm trong thập niên 1980 đã khiến nền kinh tế Venezuela khủng
hoảng sâu sắc. Việc phá giá tiền tệ càng làm cho đời sống của người dân
Venezuela bị hạ thấp. Những chính sách kinh tế thất bại và mâu thuẫn chính trị
đã đẩy đất nước Venezuela vào khủng hoảng trầm trọng, thể hiện rõ nhất qua hai
cuộc đảo chính trong cùng năm 1992.
Tháng 2 năm 1992, viên sĩ quan quân đội Hugo Chavez đã tiến hành đảo chính nhưng thất bại.
Đến tháng 11 cùng năm, những người ủng hộ Hugo Chavez lại một lần nữa tiến hành
đảo chính song không thành công[9]. Tuy nhiên, Chavez đã giành được nhiều thiện
cảm của nhân dân Venezuela và ông đã chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống
Venezuela 1998 với tỉ lệ 56%.
Sau khi lên nắm quyền, ông Hugo Chavez đã lãnh
đạo đất nước Venezuela theo đường lối cánh tả và giúp nền kinh tế phát triển.
Tuy nhiên, ông cũng vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của phe đối lập. Năm 2002, phe đối lập tại Venezuela tiến hành đảo
chính song thất bại. Bạo loạn và đình công đã khiến kinh tế Venezuela một lần
nữa rơi vào khủng hoảng, nặng nề nhất là vào năm 2003. Đến năm 2004, ông Hugo
Chavez vượt qua cuộc trưng cầu ý dân về việc bãi nhiệm tổng thống với tỉ lệ
59%. Ông được bầu làm tổng thống cho một nhiệm kỳ khác vào tháng 12 năm 2006 và
tái đắc cử nhiệm kỳ thứ ba vào tháng 10 năm 2012. Chávez qua đời vào ngày 5
tháng 3 năm 2013 sau một cuộc chiến chống ung thư kéo dài gần hai năm. Nghèo
đói và lạm phát bắt đầu gia tăng chóng mặt trong những năm 2010. Nicolás Maduro được bầu vào năm 2013 sau cái chết của
Chavez. Năm 2014, Venezuela đã lâm vào một cuộc suy thoái kinh tế nghiêm trọng.
Đến năm 2015, Venezuela trở thành nước có tỷ lệ lạm phát cao nhất thế giới, xấp
xỉ 1.000.000% đầu năm 2018 [10] Các vấn đề về kinh tế, cũng như tội
phạm, cướp bóc, đặt biệt là cướp bóc lương thực và tham nhũng, là một trong
những nguyên nhân chính gây ra một loat các cuộc biểu tình của nhân dân
Venezuela trong những năm 2014–2018. Hầu hết thực phẩm, thuốc men đều thiếu
thốn, các mặt hàng nhu yếu phẩm khác cực kì xa xỉ, vượt với tầm tay của hầu hết
người dân tại nước này.
Chính trị
[sửa | sửa
mã nguồn]
Cố tổng thống Venezuela Hugo Chavez |
Bài chi tiết: Chính trị Venezuela
Để
đọc về cuộc khủng hoảng Tổng thống đang diễn ra tại đây, xem Khủng hoảng tổng thống Venezuela 2019.
Tổng thống Venezuela được bầu cử với phiếu bầu trực tiếp theo
nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Tổng thống đảm nhiệm vai trò là nguyên thủ quốc gia và đồng thời cũng là người đứng đầu
chính phủ. Nhiệm kỳ của một tổng thống là 6 năm và tổng thống có thể được bầu
lại trong một nhiệm kỳ tiếp theo. Tổng thống Venezuela có quyền bổ nhiệm phó
tổng thống và quyết định quy mô và thành phần của nội các và bổ nhiệm các thành
viên với sự phê chuẩn của quốc hội. Tổng thống có thể đề nghị quốc hội sửa đổi
các điều luật nhưng quốc hội cũng có thế phủ quyết đề nghị của tổng thống nếu
đa số phản đối.
Cơ quan lập pháp đơn viện của Venezuela là Quốc hội hay Asamblea Nacional. Quốc
hội có 167 đại biểu, trong đó có 3 ghế được dành riêng dành cho người thổ dân
da đỏ. Các đại biểu có nhiệm kỳ 5 năm và có thể được bầu lại tối đa thêm 2
nhiệm kỳ nữa. Các đại biểu quốc hội có thế được bầu theo danh sách các chính
đảng hoặc ứng cử độc lập.
Cơ quan tư pháp tối cao là Tòa án tối cao Venezuela
hay Tribunal Supremo de Justicia, với các thẩm phán được quốc hội
bầu với nhiệm kỳ 12 năm. Hội đồng bầu cử quốc gia Venezuela (Consejo
Nacional Electoral, hay CNE) chịu trách nhiệm trong quá trình
bầu cử, có năm lãnh đạo được Quốc hội bầu ra.
Venezuela đã bãi bỏ án tử hình vào năm 1863, khiến cho nước này là quốc
gia loại bỏ khỏi án tử hình lâu nhất trên thế giới[11][12].
Quan hệ ngoại giao [sửa | sửa mã nguồn]
Tổng thống Venezuela Hugo Chavez cùng tổng
thống Argentina Nestor Kirchner (2004)
|
Trong suốt thế kỷ XX, mặc dù còn có một số tranh chấp lãnh thổ với
hai nước láng giềng Colombia và Guyana song Venezuela thường duy trì quan hệ
hữu hảo với hầu khắp các nước Mỹ Latinh cũng như các nước phương Tây.
Sau khi tổng thống Hugo Chavez đắc cử trong cuộc bầu cử tổng thống
năm 1998, ông đã lãnh đạo đất nước Venezuela theo
đường lối cánh tả với học thuyết của chủ nghĩa Bolivar và chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI cho châu Mỹ. Theo đó, ông muốn tách khu
vực Mỹ Latinh ra khỏi sân sau của Hoa Kỳ và có những tuyên bố chống Mỹ khá mạnh
bạo[13]. Dưới thời ông Hugo Chavez, quan hệ ngoại
giao với các nước cánh tả và xã hội chủ nghĩa tại Mỹ Latinh được đẩy mạnh, nhất
là với Nga, Bolivia và Cubakhi cả ba nước thiết lập một hiệp định thương mại nhằm ngăn cản
ảnh hưởng của Mỹ vào khu vực[14]. Gần đây, ông Chavez cũng quan tâm và ủng hộ
một số nước cánh tả đang lên khác tại khu vực như Ecuador và Nicaragua. Chưa kể đến việc ông cũng xúc tiến quan hệ
ngoại giao với những quốc gia chống Mỹ như Belarus[15] hay Iran[16].
Đồng thời, quan hệ ngoại giao giữa Venezuela
và Mỹ cũng xấu đi nhanh chóng. Quan hệ của
Venezuela với nước láng giềng Colombia, một đồng minh của Mỹ cũng ngày một tồi tệ.
Đầu năm 2008, khi quân đội Colombia tấn công tiêu diệt căn cứ quân nổi dậy FARC
tại lãnh thổ Ecuador, Venezuela đã phản đối mạnh mẽ và hai nước suýt xảy ra một
cuộc chiến tranh[17].
Quân đội [sửa | sửa
mã nguồn]
Bài chi tiết: Quân đội Venezuela
Quân đội Venezuela nằm dưới sự chỉ huy của Tổng
tư lệnh quân đội là tổng thống Venezuela. Quân đội Venezuela được chia thành lục quân,
hải quân, không quân và lực lượng phòng vệ. Bên cạnh đó còn có một số nhánh
khác. Hiện nay lực lượng quân đội của Venezuela là khoảng 100.000 người. Chi
phí dành cho quốc phòng mỗi năm của nước này ước tính bằng khoảng 1,7 tỉ USD
(năm 2004).
Phân chia hành chính[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Phân cấp hành chính Venezuela
Toàn bộ đất nước Venezuela được chia thành 23
tiểu bang (estados), 1 quận thủ đô (distrito capital) là thành
phố Caracas, các vùng lãnh thổ phụ thuộc (Dependencias
Federales) và khu vực Guyana Esequiba tranh chấp với Guyana. Ở cấp tiếp theo, Venezuela lại được chia
tiếp thành 335 đô thị (municipios) rồi lại được chia tiếp thành hơn 1000
khu vực nhỏ (parroquias).
Các bang của Venezuela được nhóm lại thành 9
vùng hành chính lớn.
Các bang [sửa | sửa
mã nguồn]
Bản đồ các bang của Venezuela.
Số
thứ tự
|
Bang
|
Thủ
phủ
|
1
|
||
2
|
||
3
|
||
4
|
||
5
|
||
6
|
||
7
|
||
8
|
||
9
|
||
10
|
||
11
|
||
12
|
||
13
|
||
14
|
||
15
|
||
16
|
||
17
|
||
18
|
||
19
|
||
20
|
||
21
|
||
22
|
||
23
|
Các phân chia hành chính ngoài bang:
·
Quận Thủ đô Venezuela (bao gồm Caracas)
Các vùng hành chính [sửa | sửa mã nguồn]
Bản đồ các vùng hành chính. |
·
Andes (Barinas,
Mérida, Táchira, Trujillo, thành phố Paez của Apure)
·
Thủ
đô (Miranda, Vargas, quận thủ đô)
·
Trung (Aragua,
Carabobo, Cojedes)
·
Trung
Tây (Falcón, Lara, Portuguesa, Yaracuy)
·
Guayana (Bolívar,
Amazonas, Delta Amacuro)
·
Hải
đảo (Nueva Esparta, các vùng lãnh thổ liên bang)
·
Đồng
bằng (Apure (ngoại trừ thành phố Paez), Guárico)
·
Đông
Bắc (Anzoátegui, Monagas, Sucre)
·
Zulia (Zulia)
Kinh tế
[sửa | sửa
mã nguồn]
Bài chi tiết: Kinh tế Venezuela
Công nghiệp dầu mỏ là ngành kinh tế đóng góp nhiều nhất cho
kinh tế Venezuela, tới 1/3 GDP, 80% giá trị xuất khẩu và hơn một nửa ngân sách nhà nước. Đất
nước này có một nguồn dự trữ dầu mỏ và khí đốt to lớn và hiện nay, Venezuela là một
trong 10 nước xuất khẩu dầu thô lớn nhất thế giới[18]. Những mỏ dầu chính của Venezuela nằm tại khu
vực hồ Maracaibo, vịnh Venezuela và vùng châu thổ sông Orinoco. Do được chính
phủ trợ cấp, Venezuela là một trong những nước có giá xăng dầu rẻ nhất thế
giới. Tuy nhiên những lên xuống thất thường của giá dầu trên thị trường thế
giới cũng như các cuộc khủng hoảng chính trị, đình công luôn đe dọa đến ngành
kinh tế nhạy cảm này của Venezuela. Chính phủ Venezuela đang tìm cách làm đa
dạng hóa nền kinh tế và tránh sự phụ thuộc quá nhiều vào dầu mỏ của nước này. Tính
đến năm 2016, GDP của Venezuela đạt 333.715 USD, đứng thứ 32 thế giới và đứng
thứ 4 khu vực Mỹ Latin.
Từ thập niên 1950 đến thập niên 1980, Venezuela là một trong những cường quốc kinh
tế tại Mỹ Latinh. Thu nhập bình quân của nước này gia tăng
nhanh chóng đã thu hút rất nhiều lao động từ khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên
khi giá dầu thế giới giảm mạnh trong thập niên 1980, nền kinh tế Venezuela đã
bị một phen điêu đứng. Trong những năm sau đó,[khi nào?]giá dầu trên thị trường thế giới đã tăng trở lại và tạo điều
kiện phục hồi cho nền kinh tế Venezuela. Năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế
của nước này là 8,4%. Thu nhập bình quân đầu người là 12.200 USD[19]. Dưới sự điều hành của Hugo Chavez tỷ lệ lạm phát đã tăng 30,9% năm 2008 và tăng 25,1%
trong năm 2009 cao nhất trên toàn khu vực châu Mỹ. Mức lạm phát của Venezuela cao hơn rất nhiều
1 nước cũng thường hay bị lạm phát rất cao là Argentina. Trong khi cùng bị khủng hoảng kinh tế như
Venezuela nhưng tỷ lệ lạm phát của Argentina chỉ từ 7-15% năm 2009.
Kinh tế Venezuela năm 2009 theo thông báo chính thức đã giảm 2,9%.
Hugo Chavez đã thực hiện quốc hữu hóa tài sản của
các tập đoàn Cargill Inc., Gruma SAB và hãng bán lẻ của Pháp là Casino Guichard
Perrachon nhằm kiểm soát các chuỗi sản xuất và phân phối thực phẩm. Trong tháng
8, giá lương thực tăng 0,9% so với tháng 7 trong khi mức tăng hàng tháng là
12,5% của tháng 4. Cũng trong tháng này, tỉ lệ lạm phát của mặt hàng lương thực
đã giảm xuống nhưng vẫn còn tới 39,5%. Trong giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 6
năm nay, nền kinh tế Mỹ Latinh này đã tăng trưởng chậm lại quý thứ 5 liên tiếp, và đang phải trải qua thời
điểm khốn đốn với tình trạng lạm phát khi giá tiêu dùng liên tục tăng kể cả khi nhu cầu giảm
xuống.[20]
Mặc dù là một quốc gia nhiều tài nguyên thiên
nhiên nhưng việc phân bố tài sản tại Venezuela lại không đồng đều, khiến cho
đời sống một bộ phận lớn dân nghèo gặp nhiều khó khăn. Dưới sự lãnh đạo của
tổng thống Hugo Chavez, tỉ lệ người nghèo trong những năm sau đó tại Venezuela
đã giảm đáng kể, từ mức 49% năm 1998 xuống còn 12,3% năm 2007[21].
Các chương trình trợ cấp của Chavez như duy
trì giá xăng ở mức dưới 0,1 USD/gallon (tương đương
hơn 500 VND/lít), làm các nguồn tài nguyên của Venezuela dần cạn kiệt trong khi các doanh nghiệp tư nhân không dám tăng mức đầu tư do lo ngại về những vụ quốc hữu hóa và sung công thường hay xảy ra bất ngờ
thời Chavez khiến nền kinh tế càng thêm khó khăn giữa lúc tốc độ tăng trưởng
trì trệ mà tỷ lệ lạm phát lại cao.[22]
Hugo Chavez cũng không diệt trừ được tham nhũng. Bằng cách cho giới quân sự quản lý bộ máy ngân sách cồng kềnh, ông Chavez đã tạo điều kiện
cho tham nhũng lan rộng ngay trong giới quân sự. Cải
cách tư pháp thì chưa đâu vào đâu. Các thể chế mới không đem lại điều gì ngoài
việc đẻ ra một loạt chức sắc bất tài do ông chỉ định. Đường lối kinh tế khiến cho Venezuela càng phụ thuộc hơn
nhiều vào dầu mỏ và đưa tới một loạt chính sách thắt lưng
buộc bụng. Giá trị đồng tiền giảm đáng kể cũng là một hậu quả của việc này.[5]
Những hãng sản xuất hàng tiêu dùng khổng lồ
như Colgate-Palmolive hay Avon từng nỗ lực chiếm lĩnh thị trường Mỹ Latin với các sản
phẩm chủ lực như kem đánh răng, son môi. Nhưng công sức bấy lâu của họ có
nguy cơ trôi ra sông ra biển khi Venezuela phá giá đồng nội tệ từ mức 2,15
bolivar ăn 1 USD xuống còn 4,3 bolivar ăn 1 USD. Đi đôi với quyết định phá giá
đồng nội tệ, chính quyền Venezuela phải huy động cả quân đội để kiểm soát tình trạng tăng giá bán tại
các cửa hàng. Bất chấp mọi nỗ lực của chính phủ, trong
vòng 5 năm tỷ lệ lạm phát của nước này lên tới tổng cộng 160%.[23]
Venezuela hy vọng lần phá giá đầu tiên kể từ
2005 này sẽ giúp nguồn thu chính phủ tăng lên, hạn chế nhập khẩu và tăng nguồn
thu từ xuất khẩu. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng đây
không phải là giải pháp tốt về lâu dài. Nền kinh tế Venezuela, vốn một thời
phát triển bùng nổ, nay cần những chính sách kích thích đầu tư tư nhân. Hãng
đánh giá tín nhiệm Fitch cũng bày tỏ thái độ lo lắng: "Công việc kinh
doanh tại Venezuela hiện đối mặt với nhiều căng thẳng liên quan đến thay đổi
chính sách, môi trường kinh tế vĩ mô không ổn định, cơ cấu quản lý giá và sự bế tắc trong ngành năng lượng. Tất cả những yếu tố này làm chùn chân các
nhà đầu tư".[24]
Về năng lượng, những con sông ở Venezuela đã
cung cấp một lượng lớn thủy điện cho nhu cầu tiêu dùng điện năng của nước
này. Hiện nay, 73% công suất phát điện của Venezuela phụ thuộc vào hệ thống
thuỷ điện, còn hệ thống nhiệt điện lại đang hoạt động dưới mức công suất mà
không có khả năng tăng lên, mặc dù nước này thuận lợi về nhiệt điện. Đồng peso tiếp tục rớt giá còn 6,3 peso ăn
một đôla vào ngày 25-1-2010. Trong khi tỷ giá kép mà chính phủ đưa ra vào đầu
tháng là 2,6 và 4,3 peso ăn một đôla.
Người dân đã tổ chức những cuộc phản đối mạnh
mẽ hơn. Cùng với nguyên nhân thiếu hụt điện nước, những người phản đối cũng nói
đến tình trạng mất kiểm soát đối với tội phạm khiến cho Venezuela đang có tỷ lệ tội phạm cao nhất thế giới. Người biểu tình án
ngữ trong sân vận động khi diễn ra một trận đấu bóng chày để kêu gọi ông Chavez
từ chức. Người biểu tình đã giương cao khẩu hiệu đậm chất thể thao:
"Chavez, ông đã bị loại!" [25]
Sau cái chết của Chávez, Nicolás Maduro đã trở thành tổng thống của Venezuela
sau khi đánh bại đối thủ của mình là Henrique Capriles Radonski chỉ với 235.000
phiếu bầu, tỷ lệ chênh lệch là 1,5%.[26] Maduro tiếp tục duy trì hầu hết các
chính sách kinh tế của người tiền nhiệm Chávez. Khi nhậm chức tổng thống,
Maduro đã phải đối mặt với tỷ lệ lạm phát cao và tình trạng thiếu hụt hàng hóa
tiêu dùng trên cả nước,[27][28] những vấn đề bắt nguồn từ các chính sách
của Chávez.[29][30]
Maduro đổ lỗi cho đầu cơ tư bản đã thúc đẩy tỷ
lệ lạm phát cao và gây ra sự thiếu hụt phổ biến các nhu yếu phẩm cơ bản tại
Venezuela. Ông ta nói rằng ông ta đang chiến đấu trong một "cuộc chiến
kinh tế", coi các biện pháp kinh tế mà ông ta mới ban hành là "đòn
phản công kinh tế" chống lại các đối thủ chính trị của ông ta, Maduro thậm
chí còn cáo buộc những đối thủ của mình đang đứng sau một "âm mưu kinh tế
quốc tế" [31][32][33][34][35][36]. Tuy nhiên, Maduro đã bị chỉ trích vì chỉ tập
trung vào dư luận, mà không hề quan tâm đến các vấn đề thực tế mà các nhà kinh
tế đã cảnh báo hoặc có bất kỳ ý tưởng gì để cải thiện tình trạng khó khăn của
nền kinh tế Venezuela [37][38].
Vào năm 2014, Venezuela chính thức lâm
vào suy thoái kinh tế [39] và đến năm 2016, quốc gia này có tỷ lệ
lạm phát là 800%, tỷ lệ cao nhất trong lịch sử [10][40]. Quỹ tiền tệ quốc tế dự báo tỉ lệ lạm phát ở Venezuela sẽ là
1.000.000% vào năm 2018 [41][42].
Nhân khẩu
[sửa | sửa
mã nguồn]
Quang cảnh thành phố Caracas-Một bé trai ở Venezuela |
Tính đến tháng 7 năm 2008, ước tính dân số Venezuela là 26.414.815 người[43]. Venezuela là một trong những quốc gia có tốc
độ gia tăng dân số nhanh nhất Nam Mỹ, chỉ đứng sau Bolivia, Paraguay và Guiana thuộc Pháp. Năm 2008, tốc độ gia tăng dân số của nước
này là 1,5%.
Những cuộc thống nhân khẩu được thực hiện từ
năm 1926 tại Venezuela không bao gồm thông tin về chủng tộc cho nên tỉ lệ các
sắc dân tại Venezuela chỉ có thể được biết thông qua các số liệu ước tính.
Khoảng 70% dân số Venezuela là người Mestizo, tức người lai giữa người Tây Ban
Nha và người da đỏ. Khoảng 20% là người da trắng có nguồn gốc chủ yếu từ Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha và Đức. Bên cạnh đó, tại Venezuela còn có một số
nhỏ người da đen gốc châu Phi và người các nước châu Á như Liban, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ. Khoảng 5% dân số Venezuela là người da đỏ bản địa và họ có xu hướng bị lai giữa
các chủng tộc khác ngày một nhiều hơn khi xã hội Venezuela ngày càng trở nên đa
dạng.
Khoảng 85% dân số Venezuela sống tập trung tại
các đô thị miền bắc. Venezuela là một trong những
nước có tỉ lệ dân cư sống tại thành thị cao nhất Nam Mỹ. Do đó khu vực phía nam
đồng bằng Orinoco tuy chiếm đến một nửa diện tích đất nước nhưng lại vô cùng
hoang vắng với chỉ 5% dân cư sống tại đó.
Ngôn ngữ chính thức tại Venezuela là tiếng Tây Ban Nha. Bên cạnh đó còn có 31 ngôn ngữ của thổ dân
da đỏ bản địa như tiếng Guajibo, Pemon, Warao, Wayuu, các ngôn ngữ thuộc nhóm
Yanomaman. 83% dân cư theo Đạo Thiên chúa.
Văn hóa [sửa | sửa
mã nguồn]
Bài chi tiết: Văn hóa Venezuela
Những di sản văn hóa của đất nước Venezuela
mang đậm ảnh hưởng của phong cách Mỹ Latinh, thể hiện qua tất cả các mặt của đời sống
như hội họa, kiến trúc, âm nhạc, các công trình lịch sử... Văn hóa Venezuela
được hình thành trên nền của ba nhân tố chính: văn hóa của người da đỏ bản địa, của người Tây Ban Nha và người da đen châu Phi. Ban đầu, các yếu tố văn hóa này trộn lẫn vào
nhau rồi sau đó lại phân hóa ra theo từng khu vực địa lý.
Nghệ thuật Venezuela ban đầu xoay quanh các
motif tôn giáo là chủ yếu. Tuy nhiên đến cuối thế kỷ XIX, nền nghệ thuật này bắt đầu phản ánh các sự
kiện lịch sử và những người anh hùng dân tộc, mà đi tiên phong là họa sĩ Martín
Tovar y Tovar. Đến thế kỷ XX, chủ nghĩa hiện đại lên thay thế.
Văn học Venezuela bắt đầu phát triển sau khi
người Tây Ban Nha đặt chân đến đây khai phá thuộc địa. Nền văn học bằng tiếng Tây Ban Nha chiếm địa vị độc tôn với những ảnh hưởng
của các phong cách văn học từ chính quốc. Văn học xoay quanh các chủ đề chính
trị phát triển trong cuộc chiến tranh giành độc lập đầu thế kỷ XIX của nhân dân Venezuela. Tiếp đó, chủ
nghĩa lãng mạn lên ngôi với một số nhà văn nổi tiếng, tiêu biểu là Juan Vicente
González.
Về kiến trúc, Carlos Raúl Villanueva được coi
là kiến trúc sư vĩ đại nhất của đất nước Venezuela hiện đại. Ông đã thiết kế
Trường Đại học Trung tâm Venezuela, một công trình được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế
giới.
Cuatro, một loại đàn gần giống ghita là nhạc
cụ truyền thống của Venezuela. Nhiều phong cách âm nhạc độc đáo khác nhau được
phát triển tại vùng đồng bằng llanos với những bài hát nổi
tiếng như Alma Llanera, Florentino y el Diablo, Concierto
en la Llanura và Caballo Viejo. Nhạc gaita có
nguồn gốc từ vùng Zulia được ưa chuộng và hay được biểu diễn vào dịp Giáng sinh. Còn điệu nhảy truyền thống của người
Venezuela là điệu nhảy joropo.
Tại Venezuela, môn thể thao phổ biến nhất là bóng chày. Gần đây, môn bóng đá cũng đang phát triển mạnh và dần thu hút
khán giả nước này.
Văn hóa hoa hậu[sửa | sửa mã nguồn]
Venezuela là một trong những quốc gia mà người
dân hâm mộ các cuộc thi sắc đẹp nhất thế giới. Với một công nghệ đào tạo
hoa hậu chuyên nghiệp, Venezuela đã trở thành một cường quốc hoa hậu mà không
một quốc gia nào có thể sánh kịp. Đất nước này đã lập kỉ lục 6 lần đoạt Hoa hậu Thế giới (đồng hạng nhất với Ấn Độ), 7 lần đoạt Hoa hậu Hoàn vũ (lập kỷ lục đoạt vương miện hai năm liên
tiếp 2008 và 2009), 8 lần đoạt Hoa hậu Quốc tế, 2 lần đoạt Hoa hậu Trái Đất và 1 lần đoạt Nữ
hoàng Du lịch Quốc tế. Bà Irene Saez, Hoa hậu Hoàn vũ 1981 của Venezuela thậm chí đã từng ra tranh
cử tổng thống năm 1998 nhưng không thành công.
Hàng năm, cuộc thi Hoa hậu Venezuela được tổ
chức vào tháng 9 để tìm kiếm người đại diện cho đất nước Venezuela tại các kỳ
thi sắc đẹp quốc tế. Đây là sự kiện rất thu hút ở Venezuela với chương trình
truyền hình trực tiếp kéo dài 4 giờ đồng hồ. Các Hoa hậu Venezuela khi tham dự
các kỳ thi quốc tế thường đoạt giải cao, mà gần đây nhất là Ivian Sarcos, người chiến thắng của cuộc thi Hoa
hậu Thế giới 2011 tại Anh, Gabriela Isler, người chiến thắng Hoa hậu Hoàn vũ 2013tại Nga, Mariem Velazco chiến thắng Hoa hậu Quốc tế 2018 tại Nhật Bản, Alyz Henrich chiến thắng Hoa
hậu Trái Đất 2013 tại Philippines và Liriomel Ramos đoạt vương miện Nữ hoàng Du lịch Quốc tế 2001 tại Hy Lạp. Các Hoa hậu Venezuela khác tuy không chiến
thắng ở các cuộc thi này nhưng cũng đã liên tiếp về đích ở vị trí Á hậu hoặc
lọt các Top Bán kết, Chung kết.
Tôn giáo
[sửa | sửa
mã nguồn]
Nhà thờ San Juan Bautista ở Venezuela
Tôn giáo tại Venezuela (2011)[44] |
Công
giáo Roma (71%)
Tin
lành (17%)
Bất
khả tri/Vô thần (8%)
Khác
(3%)
Không xác định (1%)
Bài chi tiết: Tôn giáo ở Venezuela
Venezuela giống như hầu hết các quốc gia Nam
Mỹ, là một quốc gia theo Công giáo Rôma. Ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo ở nước này
có từ thời thực dân Tây Ban Nha. Theo ước tính của chính phủ, 92% dân số trên
danh nghĩa là tín hữu Công giáo Rôma, và còn lại 8% là Tin Lành, các tôn giáo khác, hoặc vô thần.[45] Các ước tính của Hội đồng Tin Lành
Venezuela cho rằng Giáo hội Tin Lành chiếm 10% dân số.
Có những cộng đồng Hồi giáo và Do Thái giáo nhỏ nhưng có ảnh hưởng. Các cộng đồng
Hồi giáo của hơn 100.000 người tập trung ở những người gốc Lebanon và Syria
hiện sống ở các khu vực như Nueva Esparta, Punto Fijo và khu vực Caracas. Các con số thuộc cộng đồng Do Thái giáo là khoảng 13.000 tín đồ và chủ yếu tập
trung ở Caracas.
Nguồn: Bách khoa Toàn
thư mở Wikipedia