04 juin 2014

Ngày 4-6-1989: Hai sự kiện lớn trên thế giới: Tàn sát Thiên An Môn và Bầu cử ở Ba Lan

Ngày 4-6-2014 chúng ta kỷ niệm 25 năm ngày đau buồn của vụ thảm sát Thiên An Môn mà nhà cầm quyền Trung Quốc đã tiến hành chống lại chính những người Trung Quốc (trong đêm 3-6 và kết thúc lúc 6 giờ sang ngày 4-6-1989). Bảy giờ sau, sáng 4-6-1989 theo giờ địa phương một sự kiện lịch sử trọng đại đã diễn ra tại Ba Lan: cuộc bầu cử tự do một phần bắt đầu diễn ra. Trong 30% số ghế hạ viện cho bầu cử tự do Đoàn kết đã thắng tòn bộ; trong 100 ghế thượng viện Đảng Cộng sản đã không được một ghế nào. Kết quả bầu cử đã dẫn tới sự chuyển đổi dân chủ một cách hòa bình ở Ba Lan. Đảng CS vẫn nắm giữ 65% hạ viện, 5% do các đảng sân sau của họ nắm và Đoàn kết được 30%. Quốc hội mới vẫn bầu Tổng bí thư của ĐCS làm tổng thống;  tổng thống đã chỉ định người của mình lập chính phủ nhưng không thành; và thủ tướng không cộng sản đầu tiên đã nhận chức sau đó.
Và quá trình dân chủ hóa đã diễn ra suôn sẻ ở Ba Lan và nhiều nước XHCN Đông Âu.

Đáng học bài học thảm khốc Thiên An Môn và bài học Ba Lan tuyệt vời để suy ngẫm và hành động.
Dân quyền giới thiệu với bạn đọc 3 cuốn sách về kinh nghiệm Ba Lan:
- Adam Michnik: Những bức thư từ nhà tù

- Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan

- Bàn Tròn Ba Lan Những bài Học (kỷ yếu hội thảo nhân kỷ niệm 10 năm Bàn Tròn Ba Lan, Đại học Michigan 7-10/4/1999)


và dưới đây là trích phát biểu của Đới Tình tại hội thảo trên về sự kiện Thiên An Môn

---------------------

Dai Qing (Đới Tình), nhà báo, tác giả, nhà tổ chức nhóm vận động môi trường đầu tiên của Trung Quốc (1989)

Thưa quý vị, tiêu đề tôi sẽ thảo luận với các bạn chiều nay là “Thiên An Môn đúng Phối cảnh: Mười năm sau.” Vào đầu mùa xuân năm 1989, Bắc Kinh đã có vẻ rất yên bình. Mặc dù nhà nước đảng và xã hội đã đối lập nhau rồi, các mối quan hệ vẫn đã không căng thẳng như chúng đã từng là trong quá khứ. Nhưng dưới thời Đặng Tiểu Bình, vị hoàng đế đã quá cố, cuộc chiến giữa hai phe phái bên trong đảng, tức là, các nhà cải cách và những người theo đường lối cứng rắn, đã khởi động rồi, và đã không có sự thoái lui. Tại thời điểm này, cựu Tổng bí thư Hồ Diệu Bang, người trước đó đã bị sa thải trong một cuộc tranh chấp nội bộ đảng, đột ngột qua đời. Cái chết của ông đã phá vỡ bề mặt yên bình, và thông điệp đã đem lại phạm vi cho sự bất mãn phổ quát, hy vọng rằng đây sẽ là một bước ngoặt cho cải cách nhanh chóng. Lúc này, tại Ba Lan, khi năm mươi lăm đại diện của Bàn Tròn đã vừa ký kết một thỏa thuận và đang trong quá trình chuẩn bị chính phủ không cộng sản đầu tiên được nền dân chủ tạo ra, ở Trung Quốc hai phái trong nội bộ đảng đã theo dõi diễn tiến của tình hình này với sự quan tâm. Các nhà cải cách, những người ở vị trí thống trị khi đó, đã hy vọng rằng tình hình có thể được quản lý. Còn các đối thủ của họ, những người bảo thủ cứng rắn kiểm soát quân đội, đã âm thầm hy vọng rằng tình hình hỗn loạn sẽ khiến cho họ [các nhà cải cách] mất quyền lực. Vào mùa xuân năm đó, có thể nói rằng một số khá lớn người Trung Quốc vẫn có một niềm tin nhất định vào đảng cộng sản và vẫn có hy vọng yếu ớt cho cải cách. Trong thập kỷ qua, cải cách và chính sách mở cửa đã chắc chắn mang lại cho những người bình thường một số lợi thế rõ ràng. Tuy nhiên, vì đảng cộng sản đã thiếu niềm tin vào tính hợp pháp của nó, ngay cả phái cải cách đã cố chấp trong việc kiểm soát cứng nhắc dư luận, và trong tuyên truyền nhồi sọ của nó với những khuôn sáo nhàm chán. Chính sách này đã ngăn cản người dân hiểu những cải cách của họ, và như thế, tất nhiên, phái cải cách bị mất mối liên kết của nó với nhân dân. Vào ngày 17 tháng 4, hai ngày sau khi Hồ Diệu Bang qua đời, các sinh viên ở Bắc Kinh đã xuống đường phố. Trong bảy tuần, những nỗ lực của cuộc dân chủ hóa của Trung Quốc đã trải qua một chu kỳ nhanh chóng về huy động, cực đoan hóa, phân cực hóa, đối đầu đẫm máu, và đàn áp. Mười năm của một quá trình chậm chạp của tự do hóa hạn chế đã giành được cho người dân Trung Quốc chỉ một không gian thở rất nhỏ. Và trong triều đại của các xe quân sự, vào đầu mùa hè, những lợi lộc đó đã hầu như bị xóa bỏ hoàn toàn. Cái còn lại đã là việc dựa vào quân đội, và sự đàn áp những người tự do như đặc tính phân biệt của cải cách định hướng thị trường, và nó đã trực tiếp dẫn đến tham nhũng tràn lan và xã hội bất công mà chúng ta có ngày nay. Và như thế, trong bảy tuần này, liệu đã có bất cứ gì mà đã có thể tạo thuận lợi cho một sự chấm dứt được thương lượng của cuộc phản đối, do đó làm cho cải cách Trung Quốc quay trở lại một sự chuyển đổi theo hướng tự do dân chủ? Câu trả lời là, nói chung, hầu như không có khả năng nào cho một kết quả như vậy. Đó là bởi vì, theo nguyên tắc của khoa học chính trị, thế mạnh của hai bên càng trở nên ngang nhau hơn, thì càng dễ dàng hơn để đạt được một kết quả đồng thuận. Một phần của quá trình này bao gồm sự đánh giá khách quan của mỗi bên về thế mạnh của riêng mình và của đối phương. Năm 1989, tình hình ở Trung Quốc đã là, sự hiếm có của mục tiêu nhất định trong thời gian chuyển tiếp đã khiến cho việc đánh giá này rất khó để tính toán. Chế độ đảng cộng sản có thể coi thế mạnh của riêng nó như là vô song. Tuy nhiên, đã có thể rằng nó đã hoàn toàn mất niềm tin theo âm thanh của một triệu người đối lập. Ở phía bên kia, sự tự tin của các sinh viên có lẽ đã phồng lên với thành tích đột ngột của họ, nhưng họ có lẽ cũng đã hiểu rằng thực ra, họ đã không có tổ chức ổn định nào. Mặc dù đôi khi đà của họ có vẻ rất lớn, nội tại... tại Quảng trường Thiên An Môn cách đây mười năm. Thời kỳ đầu tiên, từ 17 tháng 4 đến ngày 26, trong mười ngày đầu tiên, Triệu Tử Dương, Tổng bí thư lúc đó và phụ thuộc vào quyết định của Đặng Tiểu Bình, đã chịu trách nhiệm quản lý các vấn đề sinh viên. Thái độ của chính quyền đã là thái độ kiềm chế chưa từng có. Nếu sự kiện này cuối cùng đã dẫn đến kết quả này, thì khi nói về những người tìm kiếm cơ hội nào đó cho sự toàn trị, đã có thể nói rằng họ đã đạt được thành công nhất định. Giai đoạn thứ hai, Triệu đi Bắc Triều Tiên trong một chuyến thăm tình cờ. Phái cứng rắn đã tóm lấy cơ hội, theo phong cách quản lý riêng của họ, để đăng một bài xã luận vào ngày 26, đầy rẫy đe dọa và tuyên truyền. Người dân đã bị chọc tức điên lên bởi giọng điệu của bài xã luận, giọng điệu đã trở nên ít quen thuộc hơn, kể từ phong trào khai sáng vào năm 1978. Và các sinh viên, những người đã vừa học được sức mạnh của đường phố một cách dễ dàng, trong chỉ vài ngày, đã có được một cảm giác an toàn với sự hoan hô của người dân tràn ngập các vỉa hè và sự chú ý do giới truyền thông trên toàn thế giới gây ra. Các sinh viên đã được cổ vũ hết sức. Cái đã xảy ra vào ngày hôm sau là một cuộc biểu tình lớn, ngày 27 tháng Tư, với mười lăm nghìn sinh viên, một triệu cư dân thành phố, kể cả vài ngàn sinh viên Trung Quốc ở nước ngoài. Lúc này, từ phía sinh viên, đã có thể nói rằng nó đã được tổ chức, và đòi hỏi của nó là vừa phải. Về phía chính phủ, không có sự đàn áp nào. Hai ngày sau, vào ngày 29 tháng Tư, một bộ phận của đảng, được gọi là Mặt trận Thống nhất, các quan chức nhiệt tình đã tổ chức một cuộc chiêu đãi làm vui lòng các nhà trí thức độc lập ở Bắc Kinh. Trong phát biểu của họ, các quan chức đã xác nhận tinh thần yêu nước của sinh viên và quá khứ dân chủ mà đảng đã phục hồi. Có vẻ như là phái cải cách đã nhận ra rằng cách tiếp cận ôn hòa của họ đã đạt được thành công. Về phần mình, các sinh viên cũng đã đạt được thành công lớn, bởi vì đòi hỏi của họ cho tờ báo của mình đã được chính quyền chấp thuận. Đây đã có thể được coi là một bước quan trọng hướng tới tự do hóa, nhưng đáng tiếc, họ đã không hiểu điểm này và đã không ghi lại những thỏa thuận bằng lời của họ với chính phủ để làm cho chúng đúng là ràng buộc. Giai đoạn thứ ba, một vài ngày sau đó, Triệu Tử Dương trở về Bắc Kinh. Một lần nữa, các đòi hỏi của sinh viên leo thang, sự leo thang, đã kiến nghị đối thoại với các quan chức, và hơn nữa, phát sóng trực tiếp trên TV. Điều này không nghi ngờ gì biểu thị sự công nhận của chính quyền về các tổ chức của sinh viên, và sự hợp pháp hoá này của tổ chức sinh viên được thành lập một cách tự phát biểu thị sự bắt đầu của một sự thay đổi cơ bản trong mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội. Nó đã là một bước tiến lớn cho cải cách. Không khó để hiểu, tuy vậy, theo các điều kiện ở Trung Quốc lúc đó, phái cải cách trong chính phủ, bất kể họ đã cởi mở đến thế nào, họ đã không có cách nào để hoạt động. Triệu Tử Dương đã mạo hiểm rất nhiều để đáp ứng trong các lĩnh vực khác, mà ông nghĩ rằng đã có một khả năng. Hai lần, ông đã phát biểu để trung hòa những người cứng rắn, và chính nhờ sự nài nỉ của ông mà một vòng mới né tránh cuộc biểu tình ngày 4 tháng Năm của sinh viên đã không bị đàn áp. Đồng thời, ông đã cố gắng hết mức để giải quyết một số vấn đề cụ thể. Khi các đòi hỏi của sinh viên phản đối tham nhũng, chống đặc quyền đối với cán bộ, câu trả lời của Triệu đã là, chúng tôi sẽ làm tất cả những gì chúng tôi có thể làm. Con trai hay con gái của các quan chức không được phép tham gia vào kinh doanh, các bạn có thể bắt đầu bằng cách lấy con trai tôi làm ví dụ. Thứ hai, các sinh viên đòi tự do báo chí, và đồng nghiệp của Triệu, Hồ Khởi Lập, nhà cải cách khác, một trong năm thành viên thường trực của Uỷ ban thường vụ Bộ Chính trị của đảng cộng sản, người cũng đã bị sa thải sau 4 tháng Sáu, đã phản ứng tích cực. Ông đã gặp các phóng viên và các học giả trong giới báo chí và đồng ý rằng một số nhà tự do nổi tiếng đã có thể công bố quan điểm của họ về vấn đề này trên báo chí chính thức. Do chính quyền chấp nhận loại thái độ này, các sinh viên trong tất cả các trường đại học ở Bắc Kinh đã chấp nhận thông báo đình chỉ việc bãi khóa của họ. Trật tự xã hội cơ bản đã được phục hồi. Thời kỳ thứ tư. Đã vẫn chưa có đủ bằng chứng tại điểm này để có thể giải thích vì sao trong bối cảnh này, một số lãnh đạo cấp tiến của sinh viên lại một lần nữa khiến cho tình hình leo thang. Và hơn thế nữa, sử dụng phương pháp cực đoan, tuyệt thực. Từ 13 đến 17, những người cực đoan đã khăng khăng đòi các điều kiện mà chính quyền không bao giờ có thể chấp nhận. Họ đã đánh bạc với cuộc sống của những người trẻ, và không chịu nhường, ngay cả yêu cầu tối thiểu của Chính phủ, tức là, tạm thời chịu nhường và nhường đường từ Quảng trường Thiên An Môn cho công việc quốc gia chào đón Tổng thống Gorbachev. Cuối cùng, vào ngày 17 tháng 5, sau năm ngày tuyệt thực của các sinh viên, Triệu cuối cùng đã có sự cho phép của đảng ông và đã đi đến quảng trường đại diện cho năm thành viên nổi tiếng của Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị, ông đã thực hiện một nỗ lực cuối cùng, mà trong đó ông đã đề xuất một sự nhượng bộ mà chính phủ sẵn sàng chấp nhận. Tức là, chính phủ sẽ không có hành động nghiêm trị nào. Nếu sinh viên ngừng tuyệt thực của họ và rút khỏi Thiên An Môn ngay lập tức và vô điều kiện. Với nước mắt lưng tròng, ông đã không thể nói nhiều hơn với những đứa trẻ xung quanh ông. Ông đã chỉ nói, là quá muộn để tôi gặp các bạn. Và tôi là một người già, các bạn, các bạn trẻ phải cẩn thận, bởi vì các bạn có một tương lai tươi sáng. Nhưng, các nhà lãnh đạo sinh viên đã không trả lời. Ngày 18 tháng Năm, Lý Bằng, người mạnh nhất trong những người cứng rắn, đã đích thân xuất hiện để gặp sinh viên và giải thích những nhượng bộ có thể của chính phủ. Các nhà lãnh đạo cực đoan đã bất ngờ tăng sự cứng nhắc của họ, thậm chí đến mức thô lỗ trong phản ứng của họ. Thậm chí còn hơn thế, tại chính thời điểm đó nhóm trí thức nổi tiếng và được ngưỡng mộ, các nhà lãnh đạo của phái tự do, như người ta đã gọi họ, đã hành động theo tin đồn rằng chính phủ sắp đổ, và đã công bố một tuyên bố có lời lẽ vô cùng mạnh mẽ, đả đảo chế độ độc tài hiện tại và chấm dứt sự cai trị của lão già. Những người theo đường lối cứng rắn bây giờ đã có đủ lý do để không nhượng bộ nhiều hơn. Các nhà chức trách đã quyết định áp dụng một biện pháp nghiêm ngặt, việc áp đặt thiết quân luật. Giai đoạn thứ năm, từ áp đặt thiết quân luật đến đàn áp vũ trang cuối cùng, đã có hai tuần. Những người biểu tình về cơ bản đã có cơ hội nhiều lần để rút lui mà không có bất kỳ lợi lớn nào nhưng cũng chẳng bị thiệt hại khủng khiếp nào. Và phẩm giá của họ cũng đã có thể được duy trì. Nhưng phong trào đã tuột khỏi tầm kiểm soát rồi. Nhiều tổ chức đã được thành lập vào thời gian này, và một số đã cân nhắc để lấy tên của họ là Đoàn kết. Tính toán ý định của các nhà chức trách và chuẩn bị tương lai của mình, các nhà lãnh đạo cực đoan đã chỉ sử dụng xúc cảm có cường độ cao nhất trong cuộc trò chuyện của họ với chế độ, mà đối với những người tiếp tục ở lại quảng trường là như đổ thêm dầu vào lửa. Vào ngày 2 tháng Sáu, nỗ lực cuối cùng của các nhà cải cách, các đại diện của con trai cả của Đặng Tiểu Bình đã cố gắng tư vấn cho các sinh viên để bắt đầu rút lui và ông Đặng trẻ đã nói ông sẽ làm hết sức mình để thuyết phục cha ông không sử dụng vũ lực. Thật bất ngờ, nó cũng không mang lại kết quả. Vào lúc nửa đêm ngày mùng 3 tháng Sáu, xe tăng đã tiến vào quảng trường. Bốn người ôn hòa, một ca sĩ, một giáo viên, một học giả, và biên tập viên, cùng với một bác sĩ, đi ra ngoài và đạt được thỏa thuận với quân đội, rút lui vô điều kiện tại một thời điểm được chọn. Các nhà lãnh đạo cực đoan đã không chặn họ lần này và một lần nữa họ đã có được sự giúp đỡ trong chạy trốn. Đây là ngày bi thảm nhất trong lịch sử chính trị thế kỷ XX của Trung Quốc. So với các cuộc đàm phán Bàn Tròn tại Ba Lan, cái đã xảy ra ở Bắc Kinh cách đây mười năm đã không phải là một phong trào dân chủ lớn, như nó được hiểu một cách rộng rãi, mà đã là một thụt lùi nghiêm trọng đối với nền dân chủ, một thảm kịch. Cái đã xảy ra ở Thiên An Môn năm 1989, một số nhà bình luận ... OK, vâng... Tôi không biết ... vâng ... ở Trung Quốc, vào mùa xuân năm 1989, phong trào đã đến đầu tiên và sự tổ chức, nói thẳng, đã được ráp lại với nhau sau đó. Đó đã chính xác là hành vi bình thường của một xã hội vừa đang nổi lên từ sự kiểm soát toàn trị của nhà nước đảng. Một số người sau đó chiếm vị trí lãnh đạo đã liều lĩnh, xem cách giải quyết như một lễ hội. Sự hiểu biết của họ về tự do và dân chủ đã rất hạn hẹp, bị hạn chế không chỉ bởi lịch sử và văn hóa Trung Hoa, mà cũng bởi kinh nghiệm của riêng họ [trong quá trình] trưởng thành. Phong trào dân chủ của Trung Quốc đã không có một con đường tắt để theo. Các đối thủ từ nhà nước đảng đối với xã hội bị đàn áp do các cuộc đàn áp ngày 4 tháng Sáu gây ra, là cuộc khủng hoảng chính trong cải cách và phát triển của tương lai. Có rất nhiều kinh nghiệm mà Ba Lan có thể truyền lại cho Trung Quốc, nhưng khinh nghiệm đầu tiên là dân chủ chỉ có thể đến thông qua hòa giải và thỏa thuận giữa nhà nước và xã hội. Việc đạt được nó chỉ có thể có được thông qua một nỗ lực không mệt mỏi, thông qua các mối đe dọa và các mối phản-đe dọa, thông qua cạnh tranh, đối thoại và đàm phán. Mười năm đã trôi qua. Như một điều cấm kỵ chính trị, không ai ở Trung Hoa lục địa đã có thể nhận được sự cho phép của nhà nước đảng, của ban tuyên huấn của Ủy ban Trung ương đảng cộng sản, để sản xuất một bộ phim hay phim tài liệu truyền hình hoặc xuất bản một cuốn sách, bài báo, hoặc triển lãm, tác phẩm điêu khắc, một bức tranh hay một bức ảnh về những gì đã xảy ra cách đây mười năm ở Bắc Kinh và các thành phố khác ở Trung Quốc. Biện pháp phòng ngừa đặc biệt đã được thực hiện ở Thiên An Môn từ năm nay. Ngược lại, các cựu lãnh đạo sinh viên cấp tiến, bây giờ hầu hết đã định cư tại Hoa Kỳ, đang cố gắng để thu thập một triệu chữ ký để buộc chính phủ sửa chữa lại ngày 4 tháng Sáu. Vẫn theo cách hoàn toàn trắng hoặc hoàn toàn đen. Đến năm nào Bàn Tròn về sự sụp đổ được thương lượng của chủ nghĩa cộng sản ở Trung Quốc sẽ diễn ra? Cảm ơn.