Theo BVN và Diễn Đàn
Tạ Văn Tài và Vũ Quang Việt
2-6-2014
Hiện
nay, đối với công hàm Phạm Văn Đồng 1958 (và các văn kiện liên quan
khác nếu có giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa), giới học giả Việt Nam có hai quan điểm đối nghịch (xin xem ở đây):
(1) Phải thoát khỏi công hàm này bằng cách Quốc hội phủ quyết nó
(Nguyễn Khắc Mai) hay bằng cách chính quyền tuyên bố thành lập chế độ
mới, để khỏi phải kế tục ràng buộc pháp lý của nó (Hà Sĩ Phu); (2) Không
thể thoát khỏi công hàm này bằng các giải pháp nêu trên vì luật quốc tế
không thừa nhận điều đó (Dương Danh Dy). Bài viết sau đây của hai tác
giả Tạ Văn Tài và Vũ Quang Việt đưa ra một văn kiện quan trọng: Công ước Kế tục Quốc gia đối với Hiệp ước 1978,
theo đó / Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam với tư cách là quốc gia kế
tục có thể bác bỏ các hiệp ước về lãnh thổ bất bình đẳng hoặc do sức ép
mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phải chịu nhận.
Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.
Bauxite Việt Nam
|
Trong
vấn đề kế tục quốc gia, một công ước quan trọng của Liên Hiệp Quốc về
việc kế tục quốc gia gần như đã bị các nhà nghiên cứu người Việt Nam và
người nước ngoài bỏ qua hay chưa nhắc tới. Công ước Kế tục Quốc gia đối với Hiệp ước 1978 (Vienna Convention on Succession of States in respect of Treaties 1978).[1]
Công ước này được soạn xong ngày 23 tháng 8 năm 1978 và có hiệu lực từ
ngày 6 tháng 11 năm 1996. Việc kế tục quốc gia (State) khác hẳn với việc
kế tục chính quyền dù là việc thay đổi chính quyền mang tính chất thay
đổi thể chế, chứ không chỉ có nghĩa là thay đổi người lãnh đạo. Ở đây
thay đổi quốc gia là sự thay đổi cơ bản về căn cước pháp lý quốc tế của
một quốc gia (state), có thể gồm cả mặt thể chế, chính quyền, công dân
và đặc biệt quan trọng là thay đổi lãnh thổ – qua việc phân chia lãnh
thổ, hay sáp nhập lãnh thổ của quốc gia trước nó. Bài này sẽ làm sáng tỏ
nội dung của Công ước này liên quan đến lãnh thổ và thử áp dụng vào
trường hợp Việt Nam, khi ta giả dụ cho cuộc bàn luận này là có một hiệp
ước về lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc trước đó.
1. Một số ý niệm cơ bản
Trước tiên cũng cần làm rõ các từ và ý niệm được sử dụng trong Công ước.
1.1 Quốc gia (State)
Quốc
gia là một pháp nhân, theo sự mô tả của công pháp quốc tế truyền thống
(traditional/customary international law), đã được đúc kết trong Công
ước Montevideo,[2]
nó sẽ được hình thành khi đạt những tiêu chuẩn sau: a) một khối dân cư
thường xuyên, b) một vùng lãnh thổ được xác định, c) một chính quyền, và
d) khả năng thiết lập quan hệ với các Quốc gia khác. Theo định nghĩa
trên, Đài Loan hiện nay, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH), Việt Nam
Cộng hòa (VNCH), Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (CHMNVN) cũng là Quốc gia
theo định nghĩa của Luật quốc tế trên tuy rằng CHMNVN được chính phủ
CMLT dùng để chỉ cùng một thực tế Quốc gia ở miền Nam vĩ tuyến 17 là nơi
có hai chính phủ tranh chấp nhau (xem giải thích về ý nghĩa chữ Quốc
gia trong tiếng Việt trong phần Phụ lục). Người Đức, người Đại Hàn và
nhất là người Việt Nam trước đây trong cả hai phần đất nước chia đôi của
họ, theo như quan niệm lý tưởng của họ, đều coi mình là một dân tộc
thuộc về một đất nước, nhưng trên thực tế, và cả trên phương diện luật
quốc tế, hai phần của một đất nước đã được đối xử như các quốc gia riêng
lẻ, có lãnh thổ, dân và chính phủ riêng và có thiết lập ngoại giao với
nhiều Quốc gia khác trên thế giới.
Hiệp định Ngừng chiến ở Việt Nam 20-7-1954 (gọi gọn là Hiệp định Geneve)[3]
thỏa thuận phân chia tạm thời Việt Nam thành hai khu vực: quân đội Nhân
dân Việt Nam (tức của VNDCCH) ở phía bắc vĩ tuyến 17, quân đội Liên
Hiệp Pháp ở phía nam và sẽ thống nhất qua cuộc tổng tuyển cử 2 năm sau
đó. Cùng với Hiệp định này là Tuyên bố cuối cùng Hội nghị Geneva: về
phục hồi hòa bình ở Đông Dương 21-7-1954,[4] ở đó, “Hội nghị tuyên bố rằng, liên quan đến Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị, thực hiện trên
cơ sở tôn trọng các nguyên tắc độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
sẽ cho phép nhân dân Việt Nam hưởng các quyền tự do cơ bản, được bảo đảm
bởi các thể chế dân chủ, thiết lập như là kết quả của các cuộc tuyển cử
tự do bằng phiếu kín.”[5]
Các cường quốc như Pháp, Liên Xô, Trung Quốc, và Anh ký kết, tuy nhiên
Mỹ và Quốc gia Việt Nam (nằm trong Liên Hiệp Pháp và lãnh đạo bởi Bảo
Đại) không chịu ký kết và sau đó không chịu thi hành cuộc tuyển cử nhằm
thống nhất đất nước. Nước Việt Nam (theo nghĩa nation) là một, nhưng
tình hình chính trị thế giới và sức ép về chính trị và quân sự của hai
cường quốc như thực dân Pháp và Mỹ ủng hộ thực dân Pháp đã tạo ra hai
Quốc gia có chủ quyền riêng biệt theo đúng định nghĩa của Công ước
Montevedio.
Cho nên, trước khi hai quốc gia đó
thống nhất vào năm 1976, bất cứ một quyết định nào liên quan đến lãnh
thổ của một trong hai Quốc gia trên, mà không do quyết định của chính
quốc gia ấy, là vi phạm đến quyền dân tộc tự quyết được ghi trong Hiến
chương Liên Hiệp Quốc. Sau khi hai miền hay hai quốc gia Việt Nam thống
nhất xong, bất cứ một quyết định nào liên quan đến lãnh thổ chung, Quốc
gia Việt Nam thống nhất với tư cách là Quốc gia kế tục các Quốc gia đã
có mặt trước đó do việc nước Việt Nam bị chia cắt có quyền sử dụng Công
ước Kế tục của LHQ, khi Công ước này có hiêu lực.
Vậy Công ước này đã quy định gì về vấn đề kế tục quốc gia?
1.2 Kế tục (succession)
Một
pháp nhân quốc gia này khi kế tục một hay nhiều pháp nhân quốc gia khác
trước đó, không nhất thiết phải kế thừa tất cả những hiệp định của pháp
nhân quốc gia mà nó kế tục, vì đó là hệ luận hợp lý của nguyên tắc chủ
quyền của một quốc gia (state sovereignty) trong hệ thống chính trị thế
giới hiện nay, trong đó một quốc gia bình đẳng với các quốc gia khác,
cho nên không ai có thể áp đặt cho một quốc gia sự chấp nhận những gì
quốc gia đó không muốn, như chính sách nội bộ (domestic jurisdiction)
chẳng hạn, ngoại trừ những nguyên tắc có giá trị phổ quát của luật quốc
tế.
Những hiệp ước ký kết giữa vài nước với
nhau chỉ có gía trị giữa các nước ký kết, không có giá trị phổ quát như
luật quốc tế áp dụng toàn cầu, chẳng hạn Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Vi
thế, trong sự kế thừa hiệp ước, khi một quốc gia kế thừa lãnh thổ, dân
chúng và chính quyền của một quôc gia mà nó thôn tính hay sát nhập, có
trường hợp quốc gia mới phải kế thừa những hiệp định hoặc thỏa thuận của
quốc gia cũ, nhưng cũng có trường hợp quốc gia mới lập coi như bắt đầu
từ trang giấy trắng, không cần kế thừa hoặc có thể tự chọn những gì cần
kế thừa nếu các quốc gia đối tác đồng ý. Các hiệp ước thỏa thuận về vấn
đề gì đó giữa các quốc gia, mà không liên quan hay va chạm đến những
nguyên tắc luật quốc tế căn bản phổ quát của cộng đồng quốc tế
(fundamental, universal principles of law of civilized nations), thì chỉ
có hiệu lực khi các bên đối tác có sự đồng ý (vì thế có danh từ
“treaties and international agreements”), theo nguyên lý tự do kết ước
(freedom of contract); và chính vì thế mà một bên kết ước hay kế thừa
hiệp ước có thể tuyên bố chấm dứt hay bãi bỏ hiệp ước đã ký (resiliation
hay repudiation/abrogation) khi tình trạng mới không còn hợp cho các sự
ràng buộc của hiệp ước nữa, tức là không còn nguyên trạng cũ vốn đã
từng làm nền tảng cho hiệp ước nữa (nguyên tắc rebus sic stantibus trong
luật quốc tế truyền thống).
Một lý do quan
trọng để quốc gia kết ước hay kế thừa hiệp ước có thể viện dẫn để đình
hoãn, chấm dứt hay bãi bỏ hiệp ước đã ký cũng đã được nêu ra ở điều 13
trong Công ước 1978; nó nói rằng nguyên tắc luật quốc tế về chủ quyền
vĩnh viễn của mọi dân tộc và mọi quốc gia đối với tài nguyên trong lãnh
thổ của mình khiến cho không có điều gì trong Công ước này có thể xâm
hại đến các nguyên tắc về chủ quyền vĩnh viễn về tài nguyên đó.
Article 13. Nothing
in the present Convention shall affect the principles of international
law affirming the permanent sovereignty of every people and every State
over its natural wealth and resources.
Như
vậy, chủ quyền về tài nguyên trong lãnh thổ đã được Công ước dành lại
hoàn toàn cho ý muốn hành xử của quốc gia kết ước hay thừa kế hiệp ước.
Chính
vì nhằm tạo ổn định trong quan hệ quốc tế, đồng thời nhằm hướng dẫn
việc giải quyết vấn đề kế tục mà Công ước được soạn thảo. Hai lý do
chính mà Công ước đưa ra để biện minh cho sự tồn tại của nó là: thứ
nhất, “có sự chuyển biến sâu sắc do tiến trình giải thực (decolonization) mang đến”; thứ hai, “có các yếu tố khác có thể dẫn đến các trường hợp kế tục trong tương lai.” Chính vì thế mà “cần
có sự điển chế (codification) và từng bước phát triển các nguyên tắc
liên quan đến việc kế tục quốc gia đối với hiệp định nhằm bảo đảm sự ổn
định pháp lý trong quan hệ quốc tế.”[6]
Như
thế Công ước về kế tục không chỉ nhằm giải quyết vấn đề nảy sinh từ
việc các quốc gia mới ra đời sau khi chủ nghĩa thực dân bị xóa bỏ mà còn
nhằm đối phó với tình hình các nước ra đời sau khi khối xã hội chủ
nghĩa tan rã, cũng như vì các lý do khác. Đây là lý do một số nước thoát
khỏi chủ nghĩa thực dân như Angola, Niger, Tunisia, v.v. hay các nước
như Ukraine, Serbia, Montenegro, Croatia, Czech Republic, Poland sau khi
các nước chủ nghĩa xã hội này tan rã, đã phê chuẩn Công ước. Cho đến
đầu năm 2014, chỉ mới có 37 nước, hầu hết là các nước có vấn đề biên
giới, hoặc mới tách lập, mới phê chuẩn. Những nước vắng mặt là Trung
Quốc và Việt Nam.[7]
Trong khi đó Công ước LHQ về Luật biển đã có 166 nước ký, chỉ còn thiếu
7 nước có biển là không chịu phê chuẩn, trong đó có Mỹ, Eritria,
Israel, Peru, Syria, Turkey, Venezuela.[8]
2. Nội dung: Công ước không đòi hỏi thừa kế hiệp định liên quan đến lãnh thổ
Công
ước cho thấy rõ là không có sự thừa kế hiệp định liên quan đến lãnh thổ
mà Quốc gia trước đó đã ký, dù Quốc gia trước đó và Quốc gia kế tục
đồng ý kế thừa bằng thỏa thuận (Điều 8.1) hay qua tuyên bố đơn phương
của Quốc gia trước đó về kế thừa (Điều 9.1). Đây là các điều quan trọng
nhất trong Công ước vì nó muốn giải phóng các nước bị áp chế trước đây
khỏi mọi ràng buộc có thể rất bất hợp lý mà họ phải chịu đựng khi hình
thành Quốc gia mới.
Điều 8.1 của Công ước cho rằng:
“Trách nhiệm và quyền của Quốc gia trước đó (predecessor) liên quan đến
lãnh thổ ghi trong hiệp định đã có hiệu lực vào lúc việc kế tục xảy ra không trở thành trách nhiệm và quyền của Quốc gia kế tục đối với các Quốc gia khác bị ràng buộc bởi hiệp định chỉ vì lý do là Quốc gia trước đó và Quốc gia kế tục đã thỏa thuận đấy là trách nhiệm và quyền ủy thác cho Quốc gia kế tục.”
Article 8.1 The
obligations or rights of a predecessor State under treaties in force in
respect of a territory at the date of a succession of States do not become
the obligations or rights of the successor State towards other States
parties to those treaties by reason only of the fact that the
predecessor State and the successor Sate have concluded an agreement
providing that such obligations or rights shall devolve upon the
successor State.
Điều 9.1 nhấn mạnh
nguyên tắc không thừa kế trong trường hợp Quốc gia trước đó
(predecessor) đã tuyên bố đơn phương kế thừa. Cơ bản sự khác biệt giữa
điều 9.1 và điều 8.1 là ở chỗ đoạn cuối của Điều 8.1 “Quốc gia trước đó và Quốc gia kế tục đã thỏa thuận” được thay bằng “Quốc gia kế tục đã tuyên bố đơn phương” ở đoạn cuối của Điều 9.1.
Article 9.1 Obligations
or rights of a predecessor state under treaties in force in respect of a
territory at the date of a succession of States do not become the obligations or rights of the successor State or of other Sates parties to those treaties by reason only of the fact that the
predecessor Sate has made a unilateral declaration providing for the
continuation in force of the treaties in respect of its territories.
Điều 13 của Công ước nói tới ở trên, về chủ quyền vĩnh viễn của quốc gia trên các tài nguyên trong lãnh thổ mà Công ước không thể xâm hại tới, cũng phù hợp với tinh thần các điều 8.1 và 9.1 này.
3. Ứng dụng trong trường hợp Việt Nam sau 1975
Công
ước cho thấy rõ nguyên tắc không phải thừa kế hiệp ước về lãnh thổ đối
với Quốc gia mới ra đời (dù được tách từ một Quốc gia hay là kết quả
nhập từ nhiều Quốc gia trước đó).
Trong trường
hợp Việt Nam, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (CHMNVN) là kế tục của Việt Nam
Cộng hòa (VNCH) vào năm 1975. CHMNVN thay thế VNCH trong vai trò quan
sát viên tại Liên Hiệp Quốc. Sau đó vào năm 1976 khi Việt Nam thống
nhất, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Quốc gia kế tục của hai Quốc
gia trước đó: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) và Cộng hòa Miền Nam
Việt Nam (CHMNVN). Điều 9.1 cho thấy dù Quốc gia trước đó là VNDCCH
tuyên bố điều gì về lãnh thổ thì tuyên bố đó vô hiệu, Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam không phải kế thừa, đó là do áp dụng tinh thần của
Công ước Kế thừa Quốc gia nhằm mục tiêu giải thực hoặc tương tự. Trong
trường hợp Quốc gia kế tục không phải kế thừa về hiệp định liên quan đến
lãnh thổ thì các tuyên bố đơn phương lại càng không phải kế thừa.
Tuy
vậy, một câu hỏi cần được thảo luận là: Công ước ra đời năm 1978 nhưng
có hiệu lực vào 6 tháng 11 năm 1996, vậy Công ước có được áp dụng một
cách hồi tố với trường hợp CHXHCNVN ra đời trước đó vào năm 1976 không?
Câu trả lời là Công ước được áp dụng mềm dẻo, dĩ nhiên áp dụng cho các
tình huống có sau Công ước, nhưng cũng có thể áp dụng cho cả các tình
huống có trước Công ước, tuỳ theo vấn đề và thỏa thuận của các quốc gia.
Không
được hồi tố là nguyên tắc chấp nhận rộng rãi trong luật. Nguyên tắc hồi
tố có hiệu lực nếu Quốc gia kế tục đã đồng ý thừa kế các hiệp ước sau
khi nó ra đời và trước khi công ước có hiệu lực nhằm tránh việc lợi dụng
công ước để xóa bỏ các hiệp ước đã đồng ý thừa kế. Công ước cũng sẽ chỉ
không áp dụng cho các sự việc xảy ra trước ngày ban hành luật (không
được có ex post facto law).
Tuy nhiên trong
trường hợp chưa có sự đồng ý nào về việc thừa kế, thậm chí Quốc gia kế
tục đã tuyên bố bác bỏ những hiệp ước hoặc tuyên bố đơn phương đã có
trước khi Công ước ra đời thì Công ước phải được áp dụng bởi vì bản chất
của Công ước là bảo vệ chủ quyền về lãnh thổ của các Quốc gia bị trị
hoặc bị đặt vào thế không thể làm quyết định phản ánh đúng ý chí của
Quốc gia đó.
Chính vì thế, dù Điều 7.1 của Công
ước Vienna qui định áp dụng đối với các Quốc gia ra đời sau khi Công
ước có hiệu lực vào ngày 6 tháng 11 năm 1996, thì Điều 7.3 lại cho phép
linh hoạt, bởi vì nó cho phép các Quốc gia dù ra đời trước khi Công ước
có hiệu lực vẫn có thể giải quyết trên cơ sở của nó, miễn là bên đối tác
ra tuyên bố chấp nhận.
Điều 7.1 “...Công ước chỉ áp dụng đối với việc kế tục quốc gia xảy ra sau khi Công ước này ra có hiệu lực trừ trường hợp được đồng ý.”
Article 7.1 “...the
Convention applies only in respect of a succession of States which has
occurred after the entry into force of the Convention of a succession of
States which has occurred after the entry into force of the Convention
except as may be otherwise agreed.”
Điều 7.3 “Quốc
gia kế tục khi phê chuẩn hay bày tỏ sự đồng ý bị tiết chế bởi Công ước
qua một tuyên bố là sẽ áp dụng tạm thời các điều khoản trong Công ước
liên quan đến việc kế tục Quốc gia của chính nó khi việc này đã xảy ra
trước khi Công ước có hiệu lực; đây là liên quan đến bất cứ Quốc gia nào
khác đã phê chuẩn hay giao ước phê chuẩn mà chính các Quốc gia này cũng
đã ra tuyên bố chấp nhận tuyên bố của Quốc gia kế tục.”
Article 7.3
“A successor State may at the time of signing or of expressing its
consent to be bound by the present Convention make a declaration that it
will apply the provision of the Convention provisionally in respect of
its own succession of States which has occurred before the entry into
force of the Convention in relation to any other signatory or
contracting State which makes a declaration accepting the declaration of
the successor States;...”
Điều kiện bên đối
tác ra tuyên bố chấp nhận, có thể là nhằm giải quyết các hiệp ước không
liên quan đến lãnh thổ bởi vì nó đòi hỏi bên đối tác có trách nhiệm.
Bài này chỉ nhằm lý giải việc kế thừa Lãnh thổ, trong khi đó Công ước
bao trùm cả vấn đề không liên quan đến lãnh thổ như tài sản, nợ, v.v.
Công
ước cho thấy rõ ràng rằng quốc gia kế tục không phải thừa kế các hiệp
ước liên quan đến chủ quyền lãnh thổ mà quốc gia trước đó đã ký nếu nó
không muốn. Kết luận này cho thấy lập luận của Trung Quốc[9] cho rằng công hàm củaThủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai ngày 14 tháng 9 năm 1958[10] là chấp nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa và Trường Sa là không có giá trị vì ba lý do:
a)
Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc chủ quyền của Quốc gia VNCH và thời gian
đó thực sự do VNCH hành xử chủ quyền, chứ không thuộc Quốc gia VNDCCH
mà ông Phạm Văn Đồng làm Thủ tướng; do đó Quốc gia VNDCCH không thể có
quyền gì đối với vùng đất mà họ không có chủ quyền và không thực sự hành
xử chủ quyền;
b) Sau 1975, CHMNVN thay thế
VNCH, và từ 1976 Quốc gia kế tục VNDCCH và CHMNVN là CHXHCNVN hoàn toàn
có quyền trên tinh thần của Công ước Kế tục Quốc gia đối với Hiệp ước 1978 không kế thừa tuyên bố đơn phương của ông Phạm Văn Đồng, và dù nó là hiệp ước đi nữa thì vẫn có quyền không kế thừa.
c)
Khi một đất nước bị phân chia thành nhiều Quốc gia, thì chỉ có quyết
định của chính quyền và dân chúng của Quốc gia thống nhất sau đó (trong
trường hợp Việt Nam là CHXHCNVN) mới có thể phản ánh quyền dân tộc tự
quyết đã được ghi thành nguyên tắc quan trọng trong Hiến Chương Liên
Hiệp Quốc (điều 1.2). Quốc gia kế tục do đó có thể bác bỏ các hiệp ước
về lãnh thổ bất bình đẳng hoặc do sức ép mà các Quốc gia trước đó đã
phải chịu nhận.
Một điều cũng không thể bỏ qua
là việc Trung Quốc dùng võ lực chiếm Hoàng Sa từ tay Quốc gia VNCH vào
năm 1974 là vi phạm Hiến chương Liên Hiệp Quốc[11] đòi hỏi “[m]ọi
thành viên phải giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa
bình nhằm không làm nguy hại hòa bình, an ninh quốc tế, và công lý.”
Phụ lục về ý nghĩa từ Quốc gia trong tiếng Việt
Trong tiếng Anh, hai từ Nation và State không hoàn toàn đồng nghĩa với nhau. Nation
nói lên một tập hợp lớn dân có cùng nguồn gốc, lịch sử, văn hóa và sống
trong một State hay một vùng địa lý nào đó lớn hơn một State. State là
một khái niệm pháp lý quốc tế như đã nói trong bài là gồm một chính
phủ, một tập hợp dân, một lãnh thổ và có khả năng thiết lập bang giao
với nước khác. Tại Âu châu, vì có những states nhỏ hơn một nation trong
lịch sử, như city-state tại Hy Lạp thời Thượng Cổ, cho nên về sau này có
loại quốc gia tập hợp trong một vùng đất đai một dân tộc với văn hóa
riêng, người ta đã dùng danh từ nation-state, và chữ nationalism để chỉ
chủ nghĩa quốc gia của dân tộc quy tụ trong nation-state.
Trong
tiếng Việt, không có sự phân biệt trên, cho nên người Việt có thể dị
ứng với việc gọi VNDCCH và VNCH là hai Quốc gia, bởi vì mọi người Việt
đều cho rằng dân tộc Việt Nam là một và nước Việt Nam là một. Theo nghĩa
này, Nước có thể dùng cùng nghĩa như Nation và Quốc gia được dùng cùng nghĩa như State.
Sự đồng nghĩa trong tiếng Việt và tình cảm đối với từ Quốc gia theo nghĩa Nước
xuất hiện chỉ vì trong văn tự lịch sử, vì không có chữ viết riêng,
người Việt đã phải dùng chữ Hán, nên phải viết là Quốc 國. Chỉ khi có chữ
Nôm thì chữ Nước mới ra đời và được viết 匿 đọc theo Hán Việt, là “nặc” và đọc trại đi là “nước”. Có người lại viết Nước
là 渃 (theo Từ điển Thiều Chửu, âm Hán Việt là nhược, chỉ con sông Nhược
ở Tứ Xuyên), nhưng Từ điển tiếng Hán không thấy có chữ này, nên cũng có
thể coi là kết hợp chữ 著 có âm Hán Việt là “trước”, và bộ thủy bên cạnh để đọc là “nước.”[12]
Nhưng dù sao chữ Nôm vẫn gần như chưa bao giờ được chuẩn hóa và được
coi là văn tự chính thức của người Việt. Cho đến hôm nay, vì thói quen,
đối với người Việt, từ Quốc gia đồng nghĩa với từ Nước.
Trong
thời kỳ Việt Nam phân tranh đặc biệt là thời Trịnh Nguyễn, giới quan
lại đã gọi và coi nhau như trong Hoàng Lê Nhất Thống chí, là dân hai
nước khác nhau, qua việc dùng chữ Quốc. Trong văn tự chính thống sau này
và trong ngôn ngữ đời thường, người ta đã phải dùng chữ Xứ 處 (nghĩa tiếng Hán là nơi cư trú) thay vì chữ Quốc gia để diễn tả ý niệm của chữ State
như Xứ Đàng Trong, Xứ Đàng Ngoài, Xứ Miên, Xứ Lào để, cũng bởi vì người
Việt nào cũng coi mình có cùng dòng giống, có cùng một đất nước.
T. V. T. – V. Q. V.
Các tác giả gửi BVN.
[1] http://legal.un.org/ilc/texts/instruments/english/conventions/3_2_1978.pdf.
[2] http://www.cfr.org/sovereignty/montevideo-convention-rights-duties-states/p15897.
[3] http://avalon.law.yale.edu/20th_century/inch001.asp
[4] The Final Declaration of The Geneva Conference: On Restoring Peace in Indochina, July 21, 1954
[8] Mặc dù phê chuẩn chung nhưng cũng có phần trong Công ước có nước không đồng ý. http://www.un.org/Depts/los/reference_files/chronological_lists_of_ratifications.htm.
[9] Bejing Review, China’s Indisputable Sovereignty Xisha and Nansha Islands, số 7, tháng 2 năm 1980, trang 21. http://www.marxists.org/subject/china/peking-review/1980/PR1980-07.pdf.
Lập luận của Bắc Kinh đã được các học giả của họ nhắc đi nhắc lại ở
nhiều nơi, thí dụ như: Ji Guoxing (Shanghai Insitute for Foreign
Studies), The Spratley Islands, China’s Dispute with Vietnam, Indochina Report, July-September 1990.
[10] Nguyên văn công hàm Phạm Văn Đồng như sau:
“Thưa đồng chí Tổng lý
Chúng
tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958
của Chính phủ nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận
của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước
có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc
trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trên mặt bể.
Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân trọng”. Lưu Văn Lợi, Cuộc tranh chấp Việt-Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1995, tr. 105.
[11]
Article 2, paragraph 3: All Members shall settle their international
disputes by peaceful means in such a manner that international peace and
security, and justice, are not endangered. https://www.un.org/en/documents/charter/chapter1.shtml
[12] LM Trần Văn Kiệm, Giúp đọc Nôm và Hán Việt, 1998, tự xuất bản.