07/08/2014
Lời phát biểu của thủ tướng Trần Văn Hữu tại Hội nghị San Francisco năm 1951 chứng tỏ chính phủ Quốc Gia Việt Nam luôn luôn tận dụng mọi cơ hội có thể có được, để tranh đấu bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, chống lại âm mưu xâm lược của nước ngoài và trong trường hợp nầy là Trung C ộng. Tại sao lại cứ tuyên truyền rằng chính phủ Quốc Gia Việt Nam là “Việt gian bán nước”?.
Thử so sánh lời phát biểu của Trần Văn Hữu với công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14-9-1958 về vấn đề Hoàng Sa, xin quý vị độc giả hãy tự kết luận ai là “lũ bán nước rong”? |
Thế chiến thứ hai chấm dứt năm 1945,
nhưng cho đến năm 1951 Hội nghị tại San Francisco (Hoa K ỳ) giữa Nhật Bản và các nước
Đồng minh mới diễn ra để Nhật Bản xác định lập trường hòa bình, từ bỏ chủ quyền
trên các vùng đất Nhật Bản chiếm đóng trong thế chiến, bàn chuyện Nhật Bản bồi
thường cho các nạn nhân và tù binh chiến tranh, cũng như quyết định chấm dứt
quân đội nước ngoài chiếm đóng Nhật Bản và trao trả chủ quyền lại cho Nhật Bản.
1.- NHẬT BẢN THẤT TRẬN
Nhật Bản xâm lăng Mãn Châu năm 1931, lập
ra Mãn Châu Quốc năm 1932, đưa vị vua cuối cùng của nhà Thanh là Phổ Nghi (Pu
Yi, trị vì Trung Hoa
1908-1912) lên làm giám quốc vì nhà Thanh gốc người Mãn Châu. Nhật chiếm Nam
Kinh (Trung Hoa )
ngày 13-12-1937, gây ra cuộc thảm sát kinh hoàng trong 6 tuần lễ, giết hại
khoảng 300,000 dân Trung Hoa.
Ngày 25-11-1936, Nhật ký với Đức hiệp ước
chống Đệ tam Quốc tế (Anti Cominter Pact) nhắm vào Liên Xô. Năm sau, Ý gia nhập
tổ chức nầy ngày 6-11-1937. Ba nước còn ký Hiệp ước Liên minh tay ba tại Berlin
ngày 27-9-1940, thường được gọi là Trục Bá Linh–La Mã –Đông Kinh (Berlin–Roma–Tokyo
Axis). Từ đó, trong khi Đức Ý tung hoành ở Âu Châu, thì Nhật bành trướng ở Á
Châu.
Nhật đưa quân đến Đông Dương năm 1940,
nhưng vẫn để Pháp cai trị Đông Dương. Ngày 7-12-1941, Nhật bất ngờ tấn công
Pearl Harbor (Hawaii), tàn phá hạm đội Hoà Kỳ ở Thái Bình Dương, giết hại 2,400
người Hoa K ỳ. Hôm
sau (8-12-1941), Hoa K ỳ
và Anh tuyên chiến với Nhật Bản. Quân đội Nhật ào ạt đổ bộ lên miền nam Thái
Lan (8-12-1941), bắc Mã Lai (8-12), tấn công Manila (8-12), đến quần đảo Luzon
(10-12-1941), chiếm Bataan (9-4-1942), và toàn bộ Phi Luật Tân (5-1942).
Trong khi chiến tranh diễn ra càng ngày
càng ác liệt tại Đông Á giữa lực lượng Đồng minh (gồm quân đội Hoa K ỳ, Anh và Trung Hoa Quốc
Dân Đảng) với quân đội Nhật Bản, thì Liên Xô vẫn tiếp tục bang giao với Nhật
Bản vì Liên Xô ký hòa ước bất tương xâm với Nhật Bản từ ngày 13-4-1941. Ngày
6-8-1945, Hoa K ỳ
thả quả bom nguyên tử đầu tiên xuống Hiroshima (Nhật Bản). Liên Xô biết chắc
chắn Nhật Bản sẽ đầu hàng, liền mời đại sứ Nhật tại Moscow đến bộ Ngoại giao
Liên Xô lúc 5 giờ chiều ngày 8-8-1945 và ngoại trưởng Liên Xô Mikailovich
Molotov thông báo cho đại sứ Nhật Bản biết rằng Liên Xô quyết định tuyên chiến
với Nhật. (Basil Collier, The
Second World War: a Military History, Gloucester, Mass: Pater Smith, 1978,
tt. 529-530.)
Sáng
sớm hôm sau (9-8-1945), Liên Xô tràn quân qua chiếm Mãn Châu và vùng đông bắc Trung Hoa , chỉ vài giờ trước
khi Hoa K ỳ dội
thêm quả bom nguyên tử thứ hai xuống thành phố Nagasaki . Liên Xô tiến quân chiếm luôn cả
miền bắc bán đảo Triều Tiên. Cuối cùng, Nhật hoàng quyết định đầu hàng ngày
14-8-1945. Hiệp ước đầu hàng được ký kết trên chiến hạm Missouri , thả neo trong vịnh Đông
Kinh, do đại tướng Mac Arthur chủ trì.
Như
thế, Liên Xô dựa vào thời cơ để nhập cuộc trong chiến tranh chống Nhật Bản năm
1945, thiệt hại không đáng kể mà hưởng lợi tối đa ở miền đông bắc châu Á.
2.-
HỘI NGHỊ SAN FRANCISCO
Sau
chiến tranh, đất nước Nhật Bản kiệt quệ, kinh tế suy thoái. Nhật Bản thay đổi
chính sách, từ bỏ chế độ quân phiệt, từ bỏ tham vọng đế quốc, ban hành hiến
pháp hòa bình ngày 3-11-1946, có hiệu lực từ 3-5-1947. Theo hiến pháp mới, Nhật
Bản theo đại nghị chế, Nhật hoàng chỉ còn giữ địa vị tượng trưng. Đặc biệt điều
9 chương II hiến pháp quy định Nhật Bản không có có Hải, Lục, Không quân và
chính phủ Nhật Bản từ nay không được quyền tuyên chiến.
Hội
nghị 51 nước tham dự theo thứ tự ABC là: Argentina, Australia, Belgium,
Bolivia, Brazil, Cambodia, Canada, Ceylon, Chile, Colombia, Costa Rica, Cuba,Czechoslovakia, Dominican Republic, Ecuador, Egypt, El
Salvador, Ethiopia, France, Greece, Guatemala, Haiti, Honduras, Indonesia,
Iran, Iraq, Japan, Laos, Lebanon, Liberia, Grand Duchy of Luxembourg, Mexico,
Netherlands, New Zealand, Nicaragua, Norway, Pakistan, Panama, Peru, Republic
of the Philippines, Poland, Saudi Arabia, Soviet
Union, Syria, Turkey,
Union of South Africa, United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland,
United States of America, Uruguay, Venezuela, Viet Nam.
3.-
THÁI ĐỘ CỦA CÁC NƯỚC CỘNG SẢN
Trong
51 nước trên đây, có ba nước lúc đó theo chế độ cộng sản là Czechoslovakia (Tiệp Khắc, chưa chia hai), Poland (Ba Lan) và Soviet
Union (Liên Bang Xô Viết hay Liên Xô). Cả Trung Hoa Dân Quốc (Đài
Loan) lẫn Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Hoa (Trung C ộng)
đều không được mời tham dự, vì hội nghị không biết mời ai là đại diện cho Trung Hoa tại hội nghị.
Trong
dự thảo hiệp ước, Nhật Bản quyết định từ bỏ quyền hành ở các hải đảo dọc bờ
biển Trung Hoa
và Việt Nam, nhưng không ghi là giao lại cho ai, vì hải đảo của nước nào thì
nước đó đương nhiên nhận lại. Dự thảo nầy được gởi đến các nước để tham khảo và
tu chính trước ngày diễn ra hội nghị.
Lập
trường của Trung C ộng
là đòi hỏi chủ quyền của Trung C ộng
trên các quần đảo duyên hải Trung
Hoa và duyên hải Việt Nam . Trung C ộng không tham dự hội
nghị, nhưng đòi hỏi của Trung C ộng
được đại diện Liên Xô trình bày trong phiên họp ngày 5-9-1951. Andrei Gromyko,
đại diện Liên Xô, phản đối bản dự thảo hòa ước vì cho rằng đây là bản dự thảo
do Hoa K ỳ và Anh
soạn thảo, chưa đáp ứng được những yêu cầu cần thiết cho một nền hòa bình với
Nhật Bản. Lời phản đối của Gromyko bị các thành viên khác trong hội nghị la ó.
(Xin xem tài liệu đính kèm số 1.)
Lý do
đại diện Liên Xô bị hội nghị la ó có thể vì bản dự thảo đã
được gởi trước để các nước tham khảo, nhưng Liên Xô không trả lời, mà mãi đến
khi hội nghị bắt đầu, mới lên tiếng làm mất thời giờ hội nghị và đại diện các
nước không chuẩn bị trước với chính phủ của họ. Cũng có thể các nước Đồng minh
biết rằng trong chiến tranh chống Nhật Bản, Liên Xô chờ đợi đến phút chót, Nhật
Bản bị sụp đổ, Liên Xô mới tham chiến để chia phần nên các đại biểu không cảm
phục.
Sau
khi chủ tịch hội nghị can thiệp, kêu gọi tái lập trật tự hội trường, thì
Gromyko mới tiếp tục phát biểu, đưa ra trước sau 13 điểm tu chính (sửa đổi 5 điểm
cũ và đưa thêm 8 điểm mới), trong đó có một tu chính là sửa đổi khoản (b) và
khoản (f), điều 2 chương II, liên quan đến các hải đảo dọc duyên hải Trung Hoa và duyên hải Việt
Nam. Andrei Gromyko cho rằng các đảo Paracels (Hoàng Sa) và các đảo khác về phía
Nam, được xem là lãnh thổ của Trung
C ộng, và yêu cầu bổ sung vào hiệp định là các hải đảo đó
thuộc chủ quyền của Trung C ộng.
(Xin xem tài liệu đính kèm số 1.) Tuy nhiên, Gromyko không đưa ra bằng chứng cụ
thể nào về chủ quyền của Trung C ộng
đối với các đảo trên.
Trong
cuộc biểu quyết ngày 7-9-1951, tất cả những tu chính của Liên Xô do Gromyko đưa
ra, trong đó có cả tu chính khoản (b) và khoản (f) điều 2 chương II, tất cả đều
bị hội nghị bác bỏ. Kết quả biểu quyết cụ thể là 46 phiếu chống, 3 phiếu thuận
của ba nước cộng sản (Tiệp Khắc, Ba Lan và Liên Xô), 1 phiếu trắng và Nhật Bản
không bỏ phiếu. Tỷ lệ bác bỏ là 46/51.
4.- Ý
KIẾN CỦA VIỆT NAM
Đại
diện Việt Nam tại hội nghị San Francisco là thủ tướng
chính phủ Quốc Gia Việt Nam (QGVN) Trần Văn Hữu. Chính phủ QGVN do cựu hoàng
Bảo Đại làm quốc trưởng. Theo hiệp định Élysée ngày 8-3-1949
Pháp giải kết hòa ước bảo hộ 1884 và trao trả độc lập lại cho Việt Nam . Chính
thể QGVN chính thức được thành lập ngày 14-6-1949. Đạo dụ ngày 1-7-1949 chia
Việt Nam
làm ba phần: Bắc, Trung và Nam Phần. Hai ngày sau, quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm
ba vị thủ hiến phụ trách ba phần, trong đó thủ hiến Trung Ph ần là dược sĩ Phan Văn Giáo.
Ngày
14-10-1950, khi Pháp quyết định giao lại quần đảo Hoàng Sa cho chính phủ QGVN,
thủ hiến Phan Văn Giáo ,
đại diện chính phủ, đến tận quần đảo Hoàng Sa để nhận bàn giao chủ quyền quần
đảo nầy. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975, tập B:
1947-1954, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 196.)
Nguyên
dưới thời vua Bảo Đại (trị vì 1926-1945), Pháp thiết lập tòa Đại lý Hành chánh
quần đảo Hoàng Sa ngày 15-6-1932. Vua Bảo Đại ban dụ số 10 ngày 30-3-1938 sáp
nhập quần đảo Hoàng Sa vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên, nên năm 1950, thủ hiến Trung Ph ần Phan Văn Giáo , đại diện
chính phủ tiếp nhận việc bàn giao của Pháp.
Ngoài
thủ tướng Trần Văn Hữu, phái đoàn chính phủ QGVN còn có các ông: Nguyễn Trung Vinh (tổng trưởng bộ
Tài chánh), Nguyễn Duy Thanh (tổng trưởng bộ Kế hoạch và Tái kiến thiết), và
Bửu Kính.
Vì sắp theo thứ tự ABC, phái đoàn Việt
Nam đứng áp chót, chỉ trước phái đoàn Nhật Bản là nước trong cuộc. Vì vậy phái
đoàn Việt Nam được mời phát biểu gần như sau cùng ngày 8-9-1951. Vào cuối phần phát biểu của mình, thủ tướng Trần
Văn Hữu nhấn mạnh: “And as we must frankly profit from all opportunities
offered to us to stifle the germs of discord, we affirm our right to the
Spratly and Paracel Islands , which have always belonged to Vietnam .”
Tạm dịch: “Và chúng tôi phải thẳng thắn lợi dụng tất cả các cơ hội dành cho
chúng tôi để chận đứng những mầm mống bất đồng, chúng tôi xác định chủ quyền
của chúng tôi trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa vốn luôn luôn thuộc Việt
Nam.”) (Xin xem tài liệu đính kèm số 2, 3 và số 4.) Lời phát biểu của thủ
tướng Trần Văn Hữu không bị đại diện phái đoàn nào trong hội nghị phản đối và
được ghi vào biên bản, chứng tỏ hội nghị đồng ý với quan điểm của chính phủ
QGVN.
Cuối
cùng, hội nghị đi đến việc ký kết bản Treaty of Peace with Japan (Hiệp
ước Hòa bình với Nhật Bản) cũng trong ngày 8-9-1951 với 48 phiếu thuận, trừ ba
nước cộng sản, đồng minh của Trung
C ộng, không chịu ký. Bản hiệp ước có hiệu lực ngày 28-4-1952.
Bản
hiệp ước San Francisco gồm 7 chương, 27 điều, trong đó khoản (f), điều 2,
chương II, liên hệ đến Việt Nam nguyên văn như sau: “Japan renounces all
right, title and claim to the Spratly Islands and to the Paracels Islands.”
(United Nations Treaty Series 1952 (reg. no. 1832), vol. 136, pp.
45 – 164.) (Nhật Bản từ bỏ mọi quyền hành, danh nghĩa và đòi hỏi đối với
quần đảo Spratly [Trường Sa] và quần đảo Paracels [Hoàng
Sa].) (Xin xem tài liệu đính kèm số 5.) Nhật Bản từ bỏ mọi quyền hành, danh
nghĩa và đòi hỏi đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa, nghĩa là Nhật
Bản trả hai quần đảo nầy trở về với chủ cũ, mà thủ tướng Trần Văn Hữu đã minh
định trước hội nghị và không một ai phản đối.
5,-
KẾT LUẬN
Hội
nghị hòa bình giữa Nhật Bản và 50 nước trên thế giới tại San Francisco, riêng
về vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa, liên hệ đến Việt Nam, có thể rút ra hai kết
luận:
Kết
luận thứ nhứt là từ năm 1951, các nước trên thế giới, trừ các nước cộng sản
đồng minh với Trung C ộng,
đều phủ nhận đòi hỏi của Trung C ộng
là các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Trung C ộng qua phần phát biểu
của đại diện Liên Xô tại hội nghị. Đồng thời các nước tham dự hội nghị không
phản đối, nghĩa là chấp nhận và cho ghi vào biên bản lời thủ tướng Trần Văn Hữu
xác định chủ quyền của Việt Nam
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Hồ sơ toàn thể hội nghị cùng lời phát biểu của thủ tướng Trần Văn Hữu được
Bộ Ngoại giao Hoa K ỳ
ấn hành ngay sau hội nghị, gởi cho tất cả các nước, cũng không bị nước nào phản
đối, trừ Trung C ộng.
Kết
luận thứ hai là lời phát biểu của thủ tướng Trần Văn Hữu chứng tỏ chính phủ
Quốc Gia Việt Nam luôn luôn tận dụng mọi cơ hội có thể có được, để tranh đấu
bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, chống lại âm mưu xâm lược của nước ngoài và trong
trường hợp nầy là Trung C ộng.
Trong khi đó, Việt Minh cộng sản luôn luôn tuyên truyền rằng chính phủ Quốc Gia
Việt Nam là “Việt gian bán nước”. Việt Minh cộng sản nhồi sọ học sinh bằng
những câu thơ như:
“Văn
Xuân, Văn Hữu cũng tay bợm già,
Cũng
phường cỏng rắn cắn gà,
Rước
voi giày mả ông bà tổ tông,
Cha
đời lũ bán nước rong!”
(Thơ
cộng sản dạy cho trẻ em trước năm 1954)
“Văn
Xuân, Văn Hữu” là hai thủ tướng Nguyễn Văn Xuân và Trần Văn Hữu của chính
phủ Quốc Gia Việt Nam .
Thử so sánh lời phát biểu của Trần Văn Hữu với công hàm Phạm Văn Đồng ngày
14-9-1958 về vấn đề Hoàng Sa, xin quý vị độc giả hãy tự kết luận ai là “lũ bán
nước rong”?
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 4-8-2014).