|
Thảm cảnh Dự án thép tổng mức đầu tư gần 2000 tỷ (các ngân hàng cam kết vốn hơn 80%) đình trệ từ 2010. |
Lỗi do ai?
Bản Qui hoạch phát
triển ngành thép được xây dựng không dựa trên luận cứ cơ sở khoa học và phương
pháp luận tin cậy mà chỉ là bài tính cộng các dự án tự phát hoặc do nước ngoài
đầu tư, mang tính mong muốn, giải pháp mang tính đạo lý, chung chung. Nguồn tài
nguyên thiên nhiên sẵn có trong nước như quặng sắt Thạch Khê, măng gan, crômite
Cổ Định, Than,…không được đề cập đến, phải phát triển như thế nào, tiếp tục
điều tra bổ sung ra sao, nguồn sắt thép phế trong nước như thế nào?. Bản quy
hoạch không hề đề cập đến nguồn vốn vv…
Bộ Công thương phải
chịu trách nhiệm về bản quy hoạch phát triển thép rất tù mù này vì cung lớn gấp
2,5 lần cầu. Trong tổng công suất 60 triệu tấn này, khu vực tư nhân chiếm 70 %,
công ty quốc doanh chiếm 30 %. Đáng mừng là vai trò của lĩnh vực tư nhân chiếm
chủ đạo cung cấp “cơm” cho ngành công nghiệp.
Như vậy, bản Qui hoạch
lập ra chủ yếu để khu vực tư nhân tham gia. Có điều đầu tư vào ngành thép đòi
hỏi vốn rất lớn, tiêu thụ năng lượng và nguồn nước rất lớn, và gây ô nhiễm nặng
môi trường, chiếm đất rất nhiều. Trong khi tư nhân Việt Nam nguồn vốn không
nhiều (có thể nói là không có vốn), cho nên thường có những đối tác bên ngoài
đứng đằng sau.
Doanh nghiệp – nhất là
tư nhân có vốn, có lãi và có cơ chế thì họ làm, còn không thì chỉ chiếm chỗ để
đấy khi có thời cơ thì làm hoặc để bán lại. Như vậy, làm sao có thể nói rằng là
doanh nghiệp tư nhân họ bỏ vốn ra để “thực hiện đường lối công nghiệp hóa” ?
Cũng chính vì lãnh đạo
Hà Tĩnh tập trung vào Liên hợp thép Vũng Áng Formosa của Đài Loan và Liên hiệp
Gang Thép Vạn Lợi mà Dự án Gang Thép của Tổng Công ty Thép Việt Nam (VSC) không
thể triển khai được. Đương nhiên, các ông chủ tư nhân “uyển chuyển”, xây đắp
quan hệ tốt hơn là doanh nghiệp quốc doanh như VSC.
Dự án của VSC này xuất
hiện từ thời ông Lê Duẩn với ý đồ ban đầu sản xuất 1,5 triệu tấn thép từ quặng
sắt Thạch Khê do Liên Xô giúp. Dự án (đã được ghi trong Nghị quyết của Đại hội
Đảng lần thứ 3) do ông Hồng Long Thứ trưởng Bộ Cơ khí-Luyện kim đứng đầu (một
đại tá đã bắt sống trung tá Pierre Charton trong chiến dịch Cao Bằng năm 1950).
Nhưng Liên Xô đâu có
nhiều tiền để giúp Việt Nam thực hiên bao nhiêu dự án “khung ” lúc đó,
nào là Nhà máy thép liên hợp Hà Tĩnh, khai thác chế biến quặng bô xít Đak Nông,
nhà máy luyện nhôm Ma Mèo ở Lạng Sơn…Còn mỏ sắt Thạch Khê ở Hà Tĩnh khó khai
thác đến nỗi liên danh Krupps (Tây Đức)-Mitsui (Nhật Bản) và Glenco (Nam Phi)
đành phải “goodbye”, rồi BHP Billiton tập đoàn khai khoáng lớn nhất thế giới cũng
không giám sờ tới. Sau đó, VSC liên doanh với tập đoàn Tata Ấn Độ, nhưng
không thể triển khai được trong đó có vấn đề địa điểm, vấn đề quyền được sử
dụng sắt Thạch Khê cho luyện thép. Cho tới nay thì Dự án của VSC không còn nữa,
quặng sắt Thạch Khê cũng “đắp chiếu” nằm yên tại chỗ.
Vạn Lợi chắc không thể
thực hiện được dự án này, nhưng phải tìm cách bán hay nhượng lại để gỡ một ít
vốn.
Thời buổi này, chắc
không có công ty thép Việt Nam nào có khả năng nhẩy vào vì vốn không có, vì
không thể tiếp nhận một đống thiết bị Trung Quốc đưa về từ 2009. Tuy nhiên, đây
lại là miếng mồi rất ngon cho Trung Quốc để “xây lô cốt” trên 200 ha đất đắc
địa về địa lý này. Kiểu này cũng sẽ lập lại đối với dự án luyện nhôm Trần Hồng
Quân ở bô xít Tây Nguyên (lưu ý rằng tiềm lực Vạn Lợi hơn hẳn Trần Hồng
Quân vì Vạn Lợi đã có nhiều dự án thép ở Hải Phòng, Vũng Tàu.). Bài học theo
vết xe đổ rồi sẽ cũng đấu thầu thiết bị và Trung Quốc lại thắng thầu cung cấp.
Cảnh báo, một khả năng
nữa là Formosaxin nhận luôn, mở rộng Liên hợp của mình thêm 200 ha nữa. Dù là
công ty Trung Quốc khác hay Formosa tiếp nhận, thì sẽ hình thành một khu kinh
tế của Trung Quốc rộng lớn nằm giữa nước Việt Nam, người ta không thể biết
Trung Quốc làm gì bên trong đó. Một khả năng nữa là làm sống lại dự án “1,5
triệu tấn” của ông Lê Duẩn?
Công ty Formosa của
Đài Loan Trung Quốc đang khai thác Vũng Áng, công nhân chủ yếu là người Trung
Quốc lục địa. Formosa đã từng xin được tự trị ở Vũng Áng nhưng không được sự
đồng ý của Chính phủ Việt Nam!. Trong đó, cái họ quan tâm là vị trí chiến lược
của Vũng Áng, có cảng nước sâu Sơn Dương, đối diện với Hải Nam Trung Quốc , có
những cán bộ sẵn sàng bán đứng đất cho "dự án" và sẵn sàng làm ngơ để
Trung Quốc đào đường ngầm ngay trong nhà mình mà không cần biết.!
Việt Nam chưa có chính
sách phát triển công nghiệp thép
Thảo luận với một
chuyên gia công tác lâu năm trong ngành công nghiệp nặng, và chuyên gia quốc
tế, chúng tôi có chung nhận thức Việt nam chưa có chính sách phát triển công
nghiệp thép. Bởi vì để đảm bảo cho phát triển bền vững và hiện đại công nghiệp
thép và ngăn chặn việc xây dựng các nhà máy thép yếu kém, các chỉ số kinh tế,
công nghệ và chất lượng phải đạt các yêu cầu như sau:
- Diện tích lắp đặt
một máy thiêu kết ít nhất phải 180 m2, chiều cao một buồng lò cốc ít nhất
là 6 m, thể tích hữu dụng của một lò cao ít nhất 1.000 m3, công suất danh định
của một lò thổi ô xy (BOF) ít nhất là 120 tấn, và của một lò điện hồ quang (EAF
) là 70 tấn.
- Xây dựng các nhà máy
thép mới ở cảng nước sâu phải có lò cao với dung tích hữu ích ít nhất là 3.000
m3, lò thổi ô xy ít nhất 200 tấn, và công suất nhà máy với ít nhất 8 triệu tấn
thép thô/năm.
- Các nhà máy thép
phải đạt được các chỉ tiêu kinh tế sau: tiêu thụ năng lượng để sản xuất 1 tấn
thép thô là 0,7 tấn than tiêu chuẩn qui đổi hoặc thấp hơn đối với lò cao, 0,4
tấn hoặc ít hơn đối với lò điện hồ quang. Tiêu thụ nước để sản xuất 1 tấn thép
thô là 6 tấn hoặc thấp hơn đối với lò cao, 3 tấn đối với lò điện hồ quang, tỷ
lệ nước tuần hoàn là 95 % hoặc cao hơn.. Các chỉ tiêu khác liên quan đến tiêu
thụ điện ít nhất bằng mức trung bình của các công ty thép cỡ trung hàng đầu.
- Tất cả các nhà máy
phải đáp ứng tiêu chuẩn phát thải quốc gia và địa phương.
- Tất cả lò cao mới
được trang bị với máy phát điện để sử dụng nguồn nhiệt và áp lực dư thừa. Tất
cả lò cốc phải được trang bị thiết bị làm nguội khô cốc, thiết bị thu bụi, và
thiết bị khử lưu huynh đối với khí cốc. Lò cốc, lò cao, và lò chuyển phải được
lắp đặt thiết bị tái chế khi than và khí cốc, nơi nào sử dụng lò điện hồ quang
thì phải lắp thiết bị tái xử lý bụi và khói.
- Phù hợp với các
nguyên tắc của kinh tế quay vòng, các công ty thép cần xây dựng các hệ thống xử
lý nước thải và xỉ. Những công nghệ như là làm nguội khô cốc, tái chế khí than
và khí cốc, thì cần lắp đặt máy phát điện chạy bằng khí than, hơi nước và áp
dực dư thừa của lò cao, và khói, bụi và tái chế xỉ để nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng năng lượng, sử dụng tốt hơn các nguồn năng lượng, và bảo vệ môi trường tốt
hơn.
- Khuyến khích công
nghiệp thép tạo ra năng lực phát minh, sáng chế. Các công ty thép cần thiết lập
các bộ môn thí nghiệm và phát triển; xây dựng, nghiên cứu và ứng dụng công nghệ
sản xuất thép tiên tiến như là đúc tấm liên tục và giảm nhiệt độ nóng chẩy.
- Các công ty thép cần
nhanh chóng áp dụng công nghệ sản xuất thép tiên tiến và các thiết bị như thiết
bị nạp liệu, tuyển chọn vật liệu, làm giầu oxygen và phun than bột, qui trình
sử lý ban đầu đối với thép lỏng, lò cao có dung tích lớn, nung chẩy phát sinh
đối với lò chuyển, đúc liên tục, cán liên tục, cán và làm nguội được khống chế.
- Các công ty cần nội
địa hoá thiết bị, nâng cao trình độ nghiên cứu và phát triển, thiết kế và chế
tạo đối với những công nghệ quan trọng và thiết bị. Chính quyền trung ương sẽ
hỗ trợ các dự án thép quan trọng sử dụng các thiết bị do trong nước mới phát
triển như là bỏ thuế, cấp kinh phí nghiên cứu và vốn phụ trợ.
- Huỷ bỏ các công nghệ
và thiết bị đã lạc hậu. Không được phép xây dựng các dự án sản xuất thép và
gang, cốc không đạt tiêu chuẩn. Huỷ bỏ những công nghệ và thiết bị như là thiết
bị thiêu kết, lò cốc (kể cả lò đã được nâng cấp ), lò luyện gang, lò cao với
dung tích lò dưới 300 m3 (trừ những lò của các công ty đúc ống), lò thổi ô xy
với công suất danh định dưới 20 tấn, lò thép hồ quang điện với công suất danh định
nhỏ hơn 20 tấn (trừ những lò của các công ty đúc và sản xuất thép hợp kim chất
lượng), lò cảm ứng trung tần, và nhà máy cán thép nhỏ đã cũ, lạc hậu.
- Chính sách đối với
nhập khẩu thiết bị và công nghệ: Khuyến khích các công ty thép áp dụng thiết bị
và công nghệ trong nước, và giảm sự lệ thuộc vào nhập khẩu. Chỉ thiết bị và
công nghệ tiên tiến và thực dụng và không có trong nước thì mới được nhập khẩu.
Cấm nhập khẩu thiết bị đã qua sử dụng, lạc hậu.
- Khuyến khích các
công ty thép phát triển theo hướng tập trung và chuyên môn hoá, sử dụng những
công nghệ chu trình ngắn để sử dụng thép phế. Không khuyến khích sử dụng lò
điện hồ quang loại nhỏ gây ô nhiễm môi trường và tiêu thụ năng lượng cao và cả
lò cao nhỏ. Khuyến khích các công ty sản xuất thép đặc biệt làm ra những sản
phẩm thép đặc biệt dùng trong công nghiệp quốc phòng, vòng bi, khuôn mẫu chịu
nhiệt, chịu lạnh và thép không gỉ vv...
Thay cho lời kết
Quy hoạch phát triển
ngành thép, sản lượng cung gấp 2,5 lần nhu cầu. Mỏ Thạch Khê chết chưa chôn,
Công ty thép Vạn Lợi phá sản vv… Cái chết được báo trước, trách nhiệm trước hết
là Bộ trưởng Công Thương là người có chức năng lập quy hoạch phát triển ngành
thép. Rất tiếc tình trạng này là hậu quả đã được dự báo trước từ lâu khi Bộ
Công thương cứ cố tình triển khai như dự án sắt Thạch Khê bằng mọi giá.
Trong khi trước đó, Liên bang Đức, Liên Xô cũ, WB, ADB v.v ...đã "bỏ của
chạy lấy người".
Sau Bộ Công thương là
TKV (Tập đoàn than khoáng sản Việt Nam) khi cứ lao đầu vào một cách “u mê” và
"ném tiền qua cửa sổ" hàng trăm tỷ đồng rồi. Từ bài học phát triển
ngành thép, lại thấy âu lo, trăn trở về dự án bô xít Tây Nguyên. Ai đứng
đằng sau giật dây vì quyền lợi và mục tiêu chiến lược của họ? Hỏi tức là trả
lời.
TVT (Tác giả gửi BVB)
|