Lưu Hiểu Ba
Phạm Thị Hoài dịch
Theo pro&contra
Theo pro&contra
Phần trích
dịch sau đây rút từ tiểu luận „Tiếng nói của những người mẹ Thiên An
Môn“ viết năm 2004, nhân 15 năm Sự kiện Lục Tứ. Lưu Hiểu Ba dành phần
đầu bài viết cho số phận của những nạn nhân được tập hợp trong một cuốn
sách nhỏ, do bà Đinh Tử Lâm, nguyên Giáo sư Triết trường Đại học Nhân
dân Trung Quốc tự xuất bản.
Con trai bà, 17 tuổi, là một trong những
thanh niên đầu tiên bị giết tại Quảng trường Thiên An Môn. Cùng với
những người mẹ và gia đình mất con khác, bà thành lập nhóm „Những người
mẹ Thiên An Môn“ (Thiên An Môn Mẫu thân Vận động)
kiên trì đòi công lí cho các nạn nhân. Lưu Hiểu Ba, bị coi là một trong
những người „giật dây“ của phong trào dân chủ Trung Quốc và sau đó bị
kết án tù, ngay từ đầu đã tận tình ủng hộ Những người mẹ Thiên An Môn.
Trong phần
cuối bài viết, Lưu Hiểu Ba một lần nữa đặt câu hỏi về vai trò và vị thế
của giới trí thức tinh hoa Trung Quốc trong phong trào 89. Sự phê phán
của ông, tuy trước hết và đồng thời là tự phê phán, nhưng vẫn gây sóng
gió trong giới đấu tranh dân chủ Trung Quốc. Tiểu luận „Chúng ta bị công lí của chính mình đè bẹp“ của ông, viết năm 1993, nhân 4 năm Sự kiện Lục Tứ, mà tôi đã giới thiệu trên pro&contra năm ngoái, cũng chung mạch tự phê phán và phản tỉnh đó. Bản dịch tập trung vào phần cuối này của tiểu luận.
Người dịch
__________
Phần lớn các tù nhân chính trị của ngày 4
tháng 6 bị kết án nặng mà tôi biết đều là những người hoàn toàn bình
thường. Một sinh viên Viện Truyền thanh Bắc Kinh bị kết án mười một năm
tù vì tham gia chặn không cho xe quân sự tiến vào Quảng trường. Một
chàng trai trẻ ở Thanh Đảo bị kết án mười tám năm tù vì đã công khai
phản đối bạo lực của chính quyền khi vụ thảm sát bắt đầu diễn ra. Nhà
thơ Liệu Diệc Vũ, người
Tứ Xuyên, từng ở chung nhà giam với nhiều tù nhân chính trị bị kết án
trên mười năm vì vụ Lục Tứ. Còn rất nhiều những tù nhân chính trị vô
danh như thế của ngày 4 tháng 6 đang ở khắp các trại tù trong toàn quốc.
Còn những nhân vật danh tiếng thì sao?
Khi đó họ kẻ cả nhìn xuống đám dân thường, nhưng không một ai trong số
họ phải thiệt mạng hay bị thương trong vụ thảm sát ở Thiên An Môn, và
cũng chỉ một số ít bị kết án nhiều hơn mười năm tù. Họ đều thoát khỏi
lưỡi rìu đao phủ và sống sót, có thể đang ở một nhà tù nào đó trong nước
hay lưu vong ở nước ngoài, nhưng đều còn sống, đều ít nhiều nổi tiếng,
ít nhiều được dư luận chú ý. Trong „những kẻ giật dây vụ Lục Tứ“ nổi
tiếng, chỉ có Vương Quân Đào và Trần Tử Minh bị kết án 13 năm tù, nhưng
giữa thập niên 90 họ được tại ngoại để chữa bệnh. Từ tháng 6 năm 1989
đến nay, tôi, cũng là một đầu sỏ „giật dây“, bị kết án ba lần, song cũng
chỉ bị ngồi tù tổng cộng không đầy 6 năm.
Nói như vậy không phải là để so bì nạn
nhân. Là một trong những nhân vật cầm trịch và „giật dây“ tôi chỉ muốn
đặt ra câu hỏi, rằng cuối cùng đâu là sự thực lịch sử của vụ Lục Tứ. Khi
tình huống bắt đầu diễn biến kinh hoàng, vì sao những người bị trừng
phạt nặng nề, những người đứng ra lo giúp các nạn nhân nguy kịch vì
thương tích, những người bỏ mạng trong vụ thảm sát, vì sao họ đều là
những người dân hoàn toàn bình thường, trong khi phong trào 89 lại do
sinh viên và giới tinh hoa trí thức cầm đầu?
Vì sao những người đã phải trả cái giá
cao nhất là sinh mạng của mình lại phần lớn thuộc về đám đông thầm lặng
trong nước, không có nổi cái quyền thuật lại câu chuyện của mình, trong
khi giới tinh hoa thuộc về phía sống sót lại cho mình cái quyền ba hoa
chém gió không biết đâu là dừng?
Vì sao sau Lục Tứ, máu của những người
dân chất phác ấy lại bị đem ra nuôi những kẻ cơ hội lớn nhỏ và cho phép
một số kẻ ăn theo vô liêm sỉ trong chốn hội chợ phù hoa, tranh đua hóa
„phong trào dân chủ“?
15 năm đã qua, dường như máu của ngày 4
tháng Sáu đã không hề khiến dân tộc lãnh cảm này bước thêm một bước nào
đáng kể, nếu không tính đến cái mùi „anh hùng“ sặc sụa được đem ra phun
vào những nhân vật trọng yếu, những kẻ quen xơi món màn thầu chấm máu
người. Giới được coi là tinh hoa của đất nước này đã không hề tiến bộ
hơn; đến hôm nay cảm giác về sự ô nhục, cảm giác về tội lỗi vẫn còn rất
hiếm hoi, và chúng ta cũng chưa học được cách biến khổ đau thành một tài
nguyên tinh thần để từ đó, bằng phẩm giá và tư cách bình đẳng, dấn thân
cho sự khổ đau của những con người bình thường, cụ thể.
Những kẻ tự phong mình vào hạng tinh hoa
văn hóa ở thập niên 80 như tôi, những nhân vật trọng yếu của sự kiện
1989 như tôi, đã làm được gì cho những hồn ma ấy? Suốt 15 năm qua, tôi
thường xuyên bị ám ảnh vì một cảm giác tội lỗi. Tôi đã viết một bản nhận
tội trong nhà tù Tần Thành, bán rẻ phẩm giá của cá nhân mình và cũng
bán luôn cả máu của những hồn ma Thiên An Môn. Khi được thả, tôi vẫn
tiếp tục ít nhiều nổi tiếng và được hưởng sự chia sẻ từ khắp nơi. Nhưng
những nạn nhân bình thường kia thì sao? Những con người tàn phế đã mất
tất cả từ lâu kia, họ thì sao? Và những người vô danh hiện vẫn bị giam
cầm thì sao? Họ được gì? Trong một bài thơ, tác giả Liệu Diệc Vũ, bị tù
bốn năm vì hai bài thơ, bài „Thảm sát“ và bài „Lễ cầu hồn“, tự hỏi: „Ai
sống sót? Sống sót là rác rưởi!"
Trước số phận cay nghiệt của những con người bình thường ghi trong tập sách này, tôi thấy mình thậm chí không có cả cái quyền làm một kẻ „sống sót“! Dù tôi là một trong những người cuối cùng rời khỏi Thiên An Môn hôm ấy, nhưng sau vụ tắm máu tôi đã không đứng thẳng lên để bày tỏ một nhân cách, điều chỉ hiện ra qua hành động. Sau khi rời Quảng trường, tôi đã không quay lại Đại học Sư phạm Bắc Kinh, ngôi trường cũ của tôi, để giúp những sinh viên từ Quảng trường chạy về; tôi lại càng không ra đường giúp cáng thương và gom xác chết, tôi đã chui vào tòa nhà tương đối an toàn của Bộ Ngoại giao để trốn. Không có gì đáng ngạc nhiên, nếu những con người bình thường đã đích thân trải qua ngày 4 tháng 6 đẫm máu ấy lên tiếng hỏi: Khi Bắc Kinh chìm trong vụ thảm sát, các vị „cầm trịch“ bỗng biến đi đằng nào?
Trước số phận cay nghiệt của những con người bình thường ghi trong tập sách này, tôi thấy mình thậm chí không có cả cái quyền làm một kẻ „sống sót“! Dù tôi là một trong những người cuối cùng rời khỏi Thiên An Môn hôm ấy, nhưng sau vụ tắm máu tôi đã không đứng thẳng lên để bày tỏ một nhân cách, điều chỉ hiện ra qua hành động. Sau khi rời Quảng trường, tôi đã không quay lại Đại học Sư phạm Bắc Kinh, ngôi trường cũ của tôi, để giúp những sinh viên từ Quảng trường chạy về; tôi lại càng không ra đường giúp cáng thương và gom xác chết, tôi đã chui vào tòa nhà tương đối an toàn của Bộ Ngoại giao để trốn. Không có gì đáng ngạc nhiên, nếu những con người bình thường đã đích thân trải qua ngày 4 tháng 6 đẫm máu ấy lên tiếng hỏi: Khi Bắc Kinh chìm trong vụ thảm sát, các vị „cầm trịch“ bỗng biến đi đằng nào?
15 năm đã trôi qua. Dù sự kiện Lục Tứ
chưa thay đổi được sự tàn nhẫn của những kẻ đã gây nên vụ thảm sát,
nhưng ít nhất ta có thể hỏi những nhân vật trọng yếu thời ấy hiện đang
ưỡn ngực phô phù hiệu nạn nhân rằng: Các vị không thấy có trách nhiệm gì
với những nạn nhân tuyệt không được hưởng một chút gì hoặc thậm chí còn
ít hơn thế hay sao? Các vị không thấy lương tâm cắn rứt ư? Chẳng lẽ các
vị không thấy ít ra cũng nên giữ những điều kiện tối thiểu cho nhân
tính tồn tại, chẳng hạn việc xiển dương tự do và xiển dương cội nguồn
của công lí mà vô số người đã hi sinh đời mình để bảo vệ – cái cội nguồn
duy nhất mà chúng ta có để chống lại một chế độ toàn trị? Trước những
người mẹ kiên tâm đòi công lí cho hồn ma của con cái họ, giới tinh hoa
sống sót thời đó không lẽ nào lại không sẵn lòng chia sẻ một chút tình
người, thực hành một chút tình đoàn kết bình đẳng và một tí xíu công
bằng, để bù lại cho những con người đã chịu nhiều khổ đau hơn hẳn ấy mức
công bằng mà họ xứng đáng được hưởng?
Tôi xin cảm ơn thân nhân của những nạn
nhân ấy. Họ đã để lại cho Trung Quốc hình ảnh những con người bình
thường trong vụ thảm sát ngày 4 tháng 6.
...............................
Nguồn: Trích dịch từ bản tiếng Đức, tiểu luận “Die Stimme der Mütter von Tiananmen”, trong tuyển tập tác phẩm của Lưu Hiểu Ba Ich habe keine Feinde, ich kenne keinen Hass, tr. 23-33. Fischer Taschenbuch. Frankfurt am Main, 2013. Nhan đề của người dịch.