.
Văn hóa Đại Việt trong thế đối thoại với Trung Hoa
Văn hóa Đại Việt trong thế đối thoại với Trung Hoa
- Vai trò của các chúa Trịnh thời Lê Trung Hưng
Nguyễn Xuân Diện & Trang Thanh Hiền
Mở đầu
Thời gian gần đây, đã có nhiều cuộc hội
thảo về Chúa Trịnh thu hút được sự quan tâm của giới học giả nhiều
lĩnh vực. Nhiều vấn đề về chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục, quân sự
… của thời đại Lê Trịnh (hoặc từng vị Chúa Trịnh) được các nhà nghiên
cứu đưa ra thảo luận, đánh giá.
Công lao của các chúa Trịnh về mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội…được ghi nhận. Đặc biệt là mô hình
chính trị “song trùng quyền lực”(còn gọi là “lưỡng đầu chế”) đã được
một số nhà nghiên cứu nêu ra và lý giải, đánh giá[1].
Về mặt văn hóa, các học giả cũng đã đưa ra những tư liệu và đánh giá
về công lao của các chúa Trịnh trên các lĩnh vực văn hóa giáo dục. Tuy
nhiên, ngay trong vấn đề này, cũng chưa có đánh giá toàn diện, trước
hết là do sự bao quát vấn đề trong một nghiên cứu liên ngành, đa ngành
mà sự khó khăn trước hết là ở sự thiếu thốn tư liệu.
Bài viết này cố gắng xem xét những đóng
góp của các chúa Trịnh trong việc gây dựng một nền văn hóa Đại Việt
độc lập và trong thế đối thoại với Trung Hoa dưới thời Lê Trung hưng.
TỪ NHỮNG THÀNH TỰU VỀ CHÍNH TRỊ VÀ KINH TẾ
Trong suốt 249 năm tồn tại, nhà Trịnh
đã thể hiện được trách nhiệm chính trị đối với đất nước thông qua nhiều
hoạt động tích cực và nhiều thành tựu được sử sách ghi nhận. Trong 249
năm ấy, lãnh thổ đã được giữ vững và không xảy ra một cuộc xâm lược
nào của phương Bắc. Đó là một điều rất đáng được lưu ý đánh giá. Các
chúa Trịnh Căn và Trịnh Cương đã nhiều lần cử các đoàn sứ bộ để bàn bạc
việc xác định cắm mốc biên giới giữa nước ta và nhà Thanh, Trung Quốc.
Sự kiện đáng lưu ý là năm 1728, nước ta đã đòi được mỏ đồng Tụ Long mà
nhà Thanh đã chiếm trước đó[2]. Sự kiện này được Phan Huy Chú đặc biệt chú ý và đã ghi lại trong Lịch triều hiến chương loại chí[3].
Trên phương diện ngoại giao, nhà chúa
duy trì phương châm mềm dẻo, ôn hòa và linh hoạt, đặt lợi ích quốc gia
dân tộc lên trên hết. Một vấn đề mà các triều đại phong kiến Việt Nam
luôn đặt ra khi giao thiệp với phương Bắc là danh hiệu nào cho người
đứng đầu nước Việt. Trước kia, dưới thời nhà Minh, các vua Việt Nam
thường chỉ được họ công nhận danh hiệu Đô thống sứ, nhưng với những cố
gắng bền bỉ ngoại giao của các chúa Trịnh, nhà Minh buộc phải công nhận
vua Lê là Quốc vương. Năm 1647, chúa Trịnh Tráng đã đòi được nhà Minh
phong cho vua Lê Thần Tông là An Nam Quốc vương[4].
Năm 1651, nhà Minh phong cho chúa Trịnh là Đô thống sứ đại tướng quân,
nhưng Trịnh Tráng trả lại ấn sắc, ý rằng nước ta đã là một vương quốc.
Nhà Minh đành sai Trương Túc mang sắc sang phong chúa Trịnh Tráng là
Phó Quốc vương[5].
Năm 1719, nhà Thanh sai Đặng Đình Triết sang phong vương, đòi vua Lê
Dụ Tông phải ba quỳ chín vái để thụ phong. Trịnh Cương đề cao quốc thể,
đưa thư không chấp nhận việc vua Lê phải quỳ lạy. Đặng Đinh Triết cứ
gượng ép nhưng Trịnh Cương vẫn cứ bác bỏ. Rất nhiều thư từ đã được trao
qua đổi lại, cuối cùng Đặng Đinh Triết cũng đành làm lễ phong Quốc
vương cho vua Lê mà vua không phải hành lễ chư hầu ba quỳ chín vái[6].
Về thành tựu kinh tế, các nhà nghiên cứu đều nhắc đến sự phồn thịnh của Kẻ Chợ (kinh đô Thăng Long) và các trung tâm thương mại lớn như Phố Hiến, Hội An, Phú Xuân. Sử gia Phan Huy Chú, các nhà truyền giáo phương Tây, các học giả thời hiện đại như Phạm Văn Diêu, Nguyễn Thừa Hỷ, Nguyễn Thanh Nhạ đều viết về kinh tế thời Lê – Trịnh những lời khen ngợi. Nhà nghiên cứu Bỉnh Di viết: “Triều Lê Trịnh là triều đại đầu tiên trong lịch sử mở rộng buôn bán với phương Tây; năm 1645 đặt thương điếm Hà Lan, 1686 đặt thương điếm Anh…Đó là những dấu vết còn lại của một Thăng Long hưng thịnh do phát triển kinh tế hàng hóa và nghề thủ công dưới triều Lê Trịnh”[7].
ĐẾN NHỮNG THÀNH TỰU VỀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA ĐẠI VIỆT ĐỘC LẬP TRONG THẾ ĐỐI THOẠI VỚI TRUNG HOA
Lễ nhạc và Văn chương khác Trung Hoa
Trước đây, trong khi nghiên cứu về thời Lê Trịnh, chúng tôi đã công bố phát hiện về năm bản nhạc chương Nôm đời Lê[8].
Đó là 5 bản nhạc chương Nôm được dùng tấu lên cùng âm nhạc trong cung
miếu nhà Trịnh mà tác giả là các bậc đại bút tiêu biểu cho các nho sĩ
phong kiến. Những nhân vật được nhắc tới và ca tụng trong các bản nhạc
chương đều là các tiên liệt dòng chúa Trịnh và đều được gọi bằng tôn
hiệu. Cụ thể như sau:
- Chiêu Tổ Khang vương Trịnh Căn (ở ngôi chúa từ năm 1682 đến 1709).
- Lương Mục vương Trịnh Vĩnh (là con trưởng của chúa Trịnh Căn), mất sớm, chưa chính thức nối ngôi chúa.
- Tấn Quang vương Trịnh Bính (là con trưởng của Lương Mục Vương và là cha của chúa Trịnh Cương). Mất sớm, chưa chính thức nối ngôi chúa.
- Hy Tổ Nhân vương Trịnh Cương (ở ngôi chúa từ năm 1709 đến 1729).
- Nghị Tổ Ân vương Trịnh Doanh (ở ngôi chúa từ năm 1740 đến 1767).
Các bản nhạc chương tấu trong nghi lễ ở
cung miếu họ Trịnh được viết bằng chữ Nôm là điều ít ngờ tới. Song,
còn ngạc nhiên hơn, khi chúng ta biết các tác giả của các bản nhạc
chương này. Họ đều là những nhà khoa bảng lừng danh (trừ Mai Thế Uông
chỉ đỗ Hương cống), là những nhà văn, nhà thơ, những sử gia, chính trị
gia nổi tiếng.
Cung miếu là nơi họ Trịnh thờ cúng tổ tiên. Các chúa Trịnh rất coi trọng việc tế lễ ở đây. Chính Trịnh Căn, trong bài Vịnh Cung miếu thi (Khâm định thăng bình bách vịnh)
đã viết về nơi này: “Theo đạo hiếu thờ phụng tổ tiên; lời giáo huấn
thực là rõ rệt. Xem văn hay mà chuộng đức trung thuần; Xét tế tự mà truy
nguồn tìm ngọn. Than ôi! Các bậc thánh vương tôn kính; một lòng khuông
phò xã tắc, gây dựng lo toan nghiệp lớn. Dấy anh uy dũng lược, trừ
tiếm nghịch tà gian. Định vạc rồng, lấy lại Kinh đô; Mở cõi đất, dấy
lên thế đạo….Cảm kích vô cùng, chưa hề có được chút chi đền báo, xin
kính cẩn làm hai bài thơ tán dương công đức, may ra làm rõ được lòng
chí kính vậy”[9].
Việc phát hiện các bản nhạc chương Nôm
đời Lê có ý nghĩa quan trọng đối với các vấn đề văn hóa và âm nhạc nước
ta. Như chúng ta đều biết, lễ nhạc của các triều đại phong kiến luôn
luôn chịu ảnh hưởng từ phía Trung Hoa, trong đó chịu ảnh hưởng lớn nhất
là các hình thức nhạc nghi lễ, tế tự, và điều này thấm sâu đến tận lễ
nghi phong tục trong dân gian. Nhưng đây là lần đầu tiên chúng ta biết
cha ông ta đã dùng chữ Nôm trong nghi lễ tế tự chốn cung miếu. Các bài
này lại được soạn theo lệnh của chúa Trịnh, và người soạn lại là các
nhà khoa bảng lớn cũng là các quan chức quan phương làm việc trong
chính phủ của phủ chúa và triều đình nhà Lê.
Các bản Nhạc chương Nôm đời Lê cho thấy
thời đại này đang xây dựng cho riêng một lề lối “y - quan - lễ - nhạc”
khác Trung Hoa, khẳng định sự độc lập và riêng khác của văn hóa Việt,
trong thế đối thoại với Trung Hoa. Đáng tiếc là sau đó, triều Nguyễn đã
không nối tiếp được điều này.
Các chúa Trịnh cũng là những người đặc
biệt coi trọng chữ Nôm và có nhiều sáng tác bằng chữ Nôm. Về sáng tác
chúng ta thấy Trịnh Căn có tập Ngự đề Thiên hòa doanh bách vịnh (Khâm định thăng bình bách vịnh), gồm 90 bài thơ, trong đó chỉ có 2 bài thơ chữ Hán; Trịnh Cương (? – 1729) có Lê triều ngự chế quốc âm thi là tập thơ văn Nôm từ khúc, ký và thơ (46 bài thơ Nôm); Trịnh Doanh (1720 – 1767) có tập Càn Nguyên ngự chế thi tập 268 bài, trong đó có 37 bài thơ chữ Hán, 231 bài thơ Nôm[10].
Ở ba tập thơ trên, các chủ đề lớn từ Tam diệu đại thống (ba mối huyền diệu lớn Thiên Địa Nhân) (Khâm định thăng bình bách vịnh), đến các khúc ca vịnh đi tuần thú (Lê triều ngự chế quốc âm thi),
rồi các bài vịnh nhân ái trong họ hàng, đạo trị nước, phép luyện quân,
giáo huấn, sai các tướng đi đánh trận, khen dụ đại thần, úy lạo sứ
thần, tưởng lệ các bậc kỳ lão, tôn sùng các vị thánh triết, cảm nhận
phúc trời, ban thưởng, thơ đề vịnh phong cảnh khắp nơi (Càn Nguyên ngự chế thi tập )…đều được thể hiện bằng chữ Nôm.
Đặc biệt nhất, phải kể đến Trịnh Sâm
(1739-1782) là một nhân vật, mà về mặt văn hóa được đánh giá là có
những đóng góp khá tích cực. Ông là một vị chúa trọng học vấn, biết
phát hiện và quý trọng hiền tài. Là người thích du ngoạn, dấu vết xe
loan của nhà chúa đã in khắp những nơi phong cảnh đẹp trong nước, và
đời sau coi ông là người đã phát hiện những tuyến du lịch kỳ thú. Mỗi
nơi ông đến, vẫn thường có thơ hoặc bút tích để lại, với số lượng nhiều
mà bài nào cũng hay, với nét riêng thi vị: Chơi động Hương Tích, Tây Hồ tức cảnh, Đăng Tuyết sơn hữu hứng, Đề Hương Tích tự thi.
Trịnh Sâm còn có 1 bài thơ và một bài từ chép trong sách Bình Ninh thực lục: Ngự chế lạo hoàn dịch quốc âm thi và Ngự chế quốc âm từ khúc. Bài Ngự chế Quốc âm từ khúc
của Trịnh Sâm được viết bằng chữ Nôm. Trong nguyên bản, bài này được
gọi là bài từ khúc. Như chúng ta đều biết, Ngâm khúc Nôm là một trong
những sáng tạo thể loại của văn học chữ Nôm. Các tác phẩm Ngâm khúc Nôm
mà chúng ta thường gặp như Tứ thời khúc vịnh, Chinh phụ ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc, Ai tư vãn, Văn chiêu hồn, Tự tình khúc … đều sử dụng thể thơ lục bát//song thất lục bát quen thuộc vốn có nguồn gốc từ thơ ca dân gian. Riêng trường hợp Ngự chế Quốc âm từ khúc,
được ghi là từ khúc, nhưng lại được viết giống như thể phú, bằng lối
biền ngẫu, với hai câu đối nhau. Chính điều này cho thấy, hoặc là cách
gọi tên thể loại của người xưa thật không chặt chẽ như quan niệm của
chúng ta ngày nay, hoặc là thể từ khúc ngày xưa được viết thế chăng? Tìm
hiểu về các điệu từ khúc mà các tác gia Việt Nam quen dùng, chúng tôi
cũng không ghi nhận được một điệu từ khúc nào viết với lối văn biền
ngẫu như trường hợp Ngự chế Quốc âm từ khúc. Từ đó, cho phép
chúng ta nghĩ đến việc, phải chăng, trong văn học thời trung đại, có
một lối từ khúc Nôm viết bằng lối văn biền ngẫu? [11].
Trịnh Sâm còn được cho là đã sáng tạo ra điệu Thổng trong ca trù. Điều này được công bố trong Việt Nam ca trù biên khảo của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, xuất bản tại Sài Gòn năm 1962[12]. Sau đó, Tuyển tập thơ ca trù của Ngô Linh Ngọc và Ngô Văn Phú (1987) cũng ghi như vậy. Gần đây nhất, trong hội thảo Trịnh Sâm cuộc đời và sự nghiệp tổ chức tại Thanh Hóa cuối năm 2008, nhà thơ Ngô Văn Phú có tham luận Chúa Trịnh với ca trù thêm một lần nữa khẳng định rằng chúa Trịnh Sâm đã làm ra điệu Thổng trong lối hát ca trù[13].
Nhắc đến thời kỳ này, không ai không nhắc đến cuốn từ điển song ngữ Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa.
Đây được coi là cuốn từ điển song ngữ Hán – Việt (Nôm) đầu tiên của
Việt Nam. Cuốn sách được tái bản (theo lối in mộc bản) vào năm Cảnh Hưng
22 (1761). Việc phải biên soạn một cuốn từ điển song ngữ Hán Nôm cho
thấy một nhu cầu tra tìm và đối sánh về mặt ngôn ngữ đã được đặt ra, qua
đó cũng cho thấy chữ Nôm Việt đã phát triển đến một trình độ ngôn ngữ
thực sự, phản ánh sự phát triển của chữ Nôm cả về phương diện ngữ âm và
phương diện văn tự. Từ đó đến nay, cuốn điển này luôn được các học giả
quan tâm nghiên cứu và dùng làm dẫn chứng trong việc nghiên cứu về chữ
Nôm, về tiếng Việt và các vấn đề khác[14].
Các nhà văn học sử đều cho rằng thời Lê
Trịnh là thời kỳ nở rộ của diễn ca lịch sử và truyện Nôm, nhưng cũng
không quên nhắc đến việc các chúa Trịnh nhiều lần cấm đoán các tác phẩm
văn học Nôm “trái với quan điểm của Phủ chúa, có thể làm rối loạn
cương thường phong hóa”[15].
Vì vậy, năm Quý Mão, niên hiệu Cảnh Trị 1 (1663), đã có lệnh cấm khắc
in và lưu hành: “Phàm các sách kinh, sử, tử, tập cùng văn chương có
quan hệ đến luân thường đạo lý ở đời, mới được khắc in và lưu hành. Còn
các loại sách dị đoan, tà thuyết, Đạo giáo, Phật giáo cùng các truyện
Nôm và thơ ca Nôm có liên quan đến chuyện dâm đãng, thì không được khắc
in, mua bán, làm tổn hại đến phong hóa”[16].
Tuy nhiên, “lệnh này không được nhân dân chấp hành, truyện Nôm vẫn cứ
được nhân dân truyền tụng ngày càng rộng rãi nên đến những năm 1718,
1751, Phủ chúa lại phải ra lệnh chỉ nhắc nhở việc thi hành. Rồi đến năm
Cảnh Hưng 21 (1760) đời Lê Hiển Tông , Trịnh Doanh lại sai Nhữ Đình
Toản diễn Nôm để dễ bề phổ biến”[17]. Thời kỳ này bên cạnh truyện thơ Nôm còn có ký Nôm, thậm chí có cả ký bằng chữ Hán nhưng lại dùng thể thơ lục bát[18].
Bên cạnh việc chữ Nôm được sử dụng rộng
rãi “trong triều, ngoài nội”, từ phủ chúa tới dân gian, từ việc diễn
đạt các nội dung nghiêm cẩn của đạo đức và học thuật Nho gia đến các
cung điệu tình cảm khác nhau của con người chốn thôn cùng xóm vắng, thì
chữ Nôm thậm chí lại còn xuất hiện cả trong văn bản hành chính[19].
Tóm lại, việc sử dụng chữ Nôm phổ biến
và rộng rãi trong sáng tác văn học (các loại đề tài) trong văn bản hành
chính cho thấy, thực sự trong xã hội lúc đó, dưới sự điều hành của Vua
Lê Chúa Trịnh, chữ Nôm đã đi sâu vào mọi mặt đời sống xã hội.
Nghệ thuật Việt:
Thời đại Lê Trịnh hiện để lại rất nhiều
dấu vết về nghệ thuật. Dường như, có một nền nghệ thuật thời Lê Trung
Hưng trong lịch sử nghệ thuật nước nhà. Thời kỳ này, thực sự đã tạo nên
những giá trị nghệ thuật thuần Việt, khác hẳn trước và sau đó. Một
trong những di sản nghệ thuật của thời Lê – Trịnh để lại cho hậu thế,
với số lượng di vật lớn, có thể quan sát và miêu tả được là di sản kiến
trúc.
1. Kiến trúc thời Lê –
Trịnh gồm hai mảng: kiến trúc Phủ chúa Trịnh và dinh thự quan lại ở
Thăng Long và kiến trúc các chùa chiền, đền miếu, lăng mộ quan đại thần
được xây dựng dưới thời Lê Trịnh ở Thăng Long và các trấn.
Với mảng thứ nhất, cho đến nay, tư liệu
về vương phủ họ Trịnh ở Thăng Long được mô tả nhiều nhất và kỹ nhất
trong các cuốn ghi chép của những giáo sĩ phương Tây thế kỷ XVI. Trong
phần viết về “Kiến trúc quần thể Vương phủ” trong cuốn sách Họ Trịnh và
Thăng Long, tác giả Quang Vũ đã cố gắng dựng lại quy mô kiến trúc của
Vương phủ họ Trịnh thông qua các tài liệu mà tác giả có được như: Lịch
sử vương quốc Đàng Ngoài của Alexandre de Rhodes, Vương quốc Đàng Ngoài
của Samuel Baron (1663), Hành trình truyền giáo (1653). Nhiều bức
tranh do người Phương Tây vẽ về Thăng Long thế kỷ XVI – XVIII cũng cung
cấp được hình ảnh về kinh thành của vua Lê – chúa Trịnh lúc bấy giờ.
Bên cạnh các tài liệu do người Phương Tây viết, có một tư liệu rất có
giá trị, miêu tả vương phủ chúa Trịnh là cuốn sách Thượng Kinh ký sự
của Lê Hữu Trác, ghi lại chuyến đi tới Phủ chúa Trịnh ở Thăng Long để
chữa bệnh cho thế tử họ Trịnh. Những tư liệu này đã đủ để tác giả Quang
Vũ phác họa lại kiến trúc quần thể Vương phủ: Vương phủ được thiết kế
hình vuông, có tường bao quanh nằm ở phía Nam hồ Tả Vọng. Vương phủ có 3
cửa, mặt phía Nam: Chính môn, mặt phía đông: Tuyên Vũ môn, mặt phía
Tây: Diệu Công môn. Khuôn viên phủ chúa bao gồm khu Bệnh viện Việt Đức,
qua phố Tràng Thi, Thư viện Trung ương, Tòa án Tối cao, Hỏa Lò tới
giáp phố Thợ Nhuộm ngày nay”[20].
Thư tịch cổ còn ghi được tên tuổi những trí thức lớn hoặc là quan
chức, hoặc là những người có họ hàng xa gần với Phủ chúa đều đã ra tay
xếp đặt hoặc trang trí cho Vương phủ. Đó là Kiều Nhạc hầu Nguyễn Khản
“trong cung chơi giả sơn, bể cạn hay hoa chim cây đá gì, tất phải qua
bàn tay ông Khản điểm xuyết chúa mới hài lòng”[21];
là Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều (cháu gọi chúa Trịnh là cậu ruột) được
Trịnh Sâm cho vào phủ vẽ trang trí và trông nom tu sửa vương phủ[22]…
Những cung điện nguy nga lộng lẫy,
những khu vườn ngự thấp thoáng các đình tạ chạm trổ công phu tinh tế,
những dòng ngự câu thơ mộng của phủ chúa đã được miêu tả trong những
tác phẩm văn học cho thấy quy mô kiến trúc to lớn, những chạm khắc tinh
vi của Vương phủ. Phạm Đình Hổ, trong Vũ trung tùy bút cho hay: “Các
loại trân cầm, dị thú, cổ mộc, quái thạch, chậu hoa, non bộ trong dân
gian đều thu vét hết không bỏ sót. Từng thấy lấy cả một cây đa từ bờ
Bắc chở qua sông đem về. Cây đa ấy cành lá rườm rà như một cây cổ thụ
treo leo nơi đầu non khe đá, rễ dài vài trượng, phải đến một cơ đội
lính vây quanh mà khiêng, ngồi trên có vài bốn người cầm gươm gõ thanh
la để lấy nhịp cho đi đều”. Rồi lính tráng nhà chúa đã cướp đoạt của
quý của người dân như sau: “Dò xem nhà người ta có hoa chim đẹp thì
biên ngay hai chữ Phụng thủ (vâng lệnh vua chúa mà lấy) vào lồng trúc
chậu sứ rồi ngầm sai đem xe và tay chân đến lấy phăng đi, gán cho người
ta tội giấu giếm vật cung phụng để hạch sách tiền của. Gặp hòn non bộ
hay cái cây to quá, có khi phải phá nhà hủy tường để đưa ra. Những nhà
giàu có khi phải bỏ hết của cải ra kêu xin. Nhiều nhà đập non bộ, phá
cây cảnh để tránh tai họa”[23].
Nhưng, cho đến hôm nay, Vương phủ xưa
hầu như không còn dấu vết gì. Các cơn binh hỏa, thiên tai và thời gian
đã xóa hết dấu vết của Vương phủ. Những kiến trúc quy mô bị thiêu cháy,
kéo theo những hoa viên đầy “kỳ hoa quái thạch” cũng không còn. Các
tác phẩm điêu khắc chạm trổ trên đá, gỗ được bày biện trong phủ chúa xa
hoa cũng không còn dấu vết. Bên cạnh Vương phủ, các dinh thự của các
quan lại trong cung vua phủ chúa cũng mất dấu vết theo! Những hành cung
của Chúa Trịnh tại Tây Hồ, Tử Trầm (Hà Tây cũ), Dũng Thúy (Ninh Bình)
cũng không còn!
Mảng kiến trúc các chùa chiền, đền
miếu, lăng mộ quan đại thần được xây dựng dưới thời Lê Trịnh ở Thăng
Long và các trấn trái lại còn nhiều dấu vết có thể khảo cứu được. Đó là
những ngôi chùa đã trở thành danh lam cổ tự như: Bút Tháp (do bà hoàng
Trịnh Thị Ngọc Trúc hưng công), Tây Phương (Trịnh Tạc sai trùng tu năm
1660), Nhạc Lâm (chúa và các phi tần có ghé thăm và đề thơ), Kim Liên
(Trịnh Sâm sai trùng tu), Nga My (Trịnh Đỗ hưng công), Hàm Long (Trịnh
Thập hưng công)…Những ngôi chùa này có diện mạo đẹp đẽ như ngày nay đều
là do được xây dựng, trùng tu lớn dưới thời các chúa Trịnh. Chùa Bút
Tháp với việc bố trí kiến trúc trải dài trên một trục thần đạo, xen
giữa các cây cối, hoa cỏ, hồ nước, tháp mộ giữa một tổng thể cảnh quan
đồng lúa và đê sông cho thấy một lối kiến trúc khoáng đạt. Hoa viên của
Bút Tháp nói riêng của các chùa chiền đền miếu được xây dựng và tu bổ
lớn dưới sự chỉ đạo của các chúa Trịnh hoặc sự hưng công của các quan
lại, phi tần cung phi của chúa Trịnh đều có nét riêng đáng được xem là
một nghệ thuật tiêu biểu. Đáng tiếc, vấn đề này chưa được thống kê,
nghiên cứu và tổng kết.
Phân tích các yếu tố Hoa và Việt trong
bình đồ kiến trúc chùa Bút Tháp, GS Nguyễn Duy Hinh nhận định rằng kiến
trúc Bút Tháp là lối kiến trúc viện lạc trong nghệ thuật kiến trúc Hoa[24].
Nhưng nhìn tổng thể kết cấu bố cục cũng như từng thành phần kiến trúc
thì thấy rằng yếu tố Việt được hiện diện rất rõ ràng. Đặc biệt là tòa
Tích Thiện Am bên trong có tháp Cửu phẩm liên hoa là một sản phẩm của
Phật giáo Việt Nam, mặc dầu nguồn gốc của nó thuộc về Phật giáo Mật
tông. Nó là sản phẩm có giá trị đặc biệt trong việc hình tượng hóa triết
lý Phật giáo đặc sắc Việt Nam thế kỷ XVII. Đây cũng là một trong ba
tòa tháp Cửu Phẩm bằng gỗ còn lại đến hôm nay ở nước ta[25].
Nhà nghiên cứu mỹ thuật Phan Cẩm Thượng
nhận định rằng: “Kiến trúc, điêu khắc, trang trí Bút Tháp nằm gọn
trong thế kỷ XVII là di tích kiến trúc nguyên vẹn đặc trưng nhất của
nghệ thuật Phật giáo cổ điển Việt Nam”[26].
Chùa Kim Liên, chùa Tây Phương được bố
trí bằng một bình đồ hình chữ “tam” là bình đồ kiến trúc được khẳng
định là của người Việt[27].
Với hai ngôi chùa này kiến trúc và trang trí cung đình hoa mỹ đã được
thể hiện trên rất nhiều thành phần kiến trúc. Không chỉ vậy, lối kiến
trúc hình chữ “tam” này đã là tiền đề cho lối kiến trúc “trùng thiềm
điệp ốc” rất độc đáo của cung điện thời Nguyễn sau này ở Huế.
2. Nghệ thuật điêu khắc
trên đá, gỗ cũng là một di sản nghệ thuật Lê Trung hưng còn lại đến hôm
nay. Thời đại này dường như có sự nở rộ của việc xây cất những lăng mộ
của giới quý tộc. Những khu lăng mộ đá hiện còn rải rác khắp châu thổ
sông Hồng và xứ Thanh như: lăng Ân vương Trịnh Doanh, lăng Quận Đăng,
Phúc Khê hầu Nguyễn Văn Nghi, lăng Dương Lễ công Trịnh Đỗ (Thanh Hóa)
lăng Họ Ngọ, Dinh Hương, lăng Bầu ( Bắc Giang), lăng Quận công Nguyễn
Đức Nhuận (Yên Mỹ, Hưng Yên), lăng Quận Vân (Thường Tín, Hà Tây cũ)… là
các lăng của các quận công, thái giám triều Lê Trịnh. Sự nở rộ của việc
xây cất lăng mộ cho thấy sự quan tâm rất thiết yếu về một đời sống tâm
linh của các tầng lớp trên, mong có một sự bền vững và thịnh vượng cho
dòng họ cũng như quốc gia.
Khi đặt lăng mộ họ luôn phải quan tâm
đến yếu tố phong thủy của một cuộc đất tốt. Lăng mộ thời kỳ này vượt
hẳn lên so với các triều đại trước đó về cả qui mô lẫn nghệ thuật điêu
khắc. Nếu thời Lê Sơ mới đặt ra các chuẩn tắc trong việc xây dựng các
lăng mộ theo công đức của người đã khuất nhưng trình độ điêu khắc đá
còn rất thô sơ, thì đến giai đoạn này, nghệ thuật điêu khắc đá dường
như đạt đến đỉnh cao. Từ các tượng quan văn võ cho đến các tượng voi
ngựa đều được khắc tạc vô cùng sinh động. Kích thước của các tượng cũng
khá lớn. Việc giải quyết khối trong không gian đã đạt đến một trình độ
điêu luyện, đặc biệt là các tượng voi ngựa cho thấy trình độ quan sát
rất kỹ lưỡng cũng như một tay nghề tuyệt hảo. Đồng thời, cùng với nghệ
thuật điêu khắc chân dung được phát triển mạnh trong các đình chùa, hay
nhà thờ họ, thì trên các điêu khắc đá ở lăng mộ tượng chân dung cũng
vô cùng sinh động. Người ta có thể nhìn thấy ở đây những sự nhận xét
rất sắc sảo trong việc điêu khắc chân dung, tướng mạo của các vị quan
văn, quan võ hai bên tả hữu của một khu lăng mộ. Đây cũng là tiền đề
cho sự phát triển mạnh mẽ và quy củ hơn của nghệ thuật điêu khắc lăng
mộ thời Nguyễn ở Huế. Mặc dầu đứng trên giá trị nghệ thuật mà nói tính
chất dân gian trong các chạm khắc đá lăng mộ thời Lê Trung Hưng cho
thấy một tinh thần phóng khoáng hơn nhiều so với tính chất khô lạnh của
các điêu khắc lăng mộ giai đoạn sau.
Chưa kể đến, nghệ thuật thiết kế kiến
trúc lăng mộ giai đoạn này còn mang nhiều ý thức giải Hoa như sự biến
báo của lối thiết kế trục đường thần đạo của một công trình. Các hạng
mục công trình như đền thờ và lăng mộ không nhất thiết phải tạo ra trên
một trục dọc, mà chúng tùy ứng theo địa thế phong thủy. Tính chất đăng
đối giả cũng được chú ý đến, khiến cho các công trình điêu khắc này
tạo ra những nét thú vị đặc biệt.
Về đề tài chạm khắc ở các lăng mộ cũng rất phong phú, đa dạng những mô típ như khỉ, chuột, cá, chim cò, hoa cỏ được hiện diện ở khắp nơi dường như đã rời xa ảnh hưởng của Trung Hoa. Thế giới bên kia, nơi mà các chủ nhân của các ngôi mộ yên nghỉ đời đời được trang trí bằng các tác phẩm điêu khắc đá rất mềm mại, thuần Việt, thể hiện quan niệm “sống gửi thác về”. Nếu như các lăng mộ của giới quý tộc Trung Hoa biểu thị một sự uy nghiêm, cách bức với trần thế, thì các lăng mộ của Việt Nam dưới thời Lê Trung Hưng luôn gần gũi với những người còn sống: giữa đồng lúa nương dâu và bên cạnh các xóm làng bình yên.
Bên cạnh những điêu khắc đá ở lăng mộ
quý tộc, là hệ thống văn bia không chỉ ở lăng mộ mà ở khắp các đền,
đình, chùa chiền. Các văn bia thời Lê Trung Hưng cũng cho thấy một
trình độ điêu khắc rất đặc sắc. Các mô típ trang trí trên diềm, hay
trán bia thời này rất đa dạng. Không chỉ có rồng chầu mặt nhật, nguyệt,
mà còn xuất hiện rất nhiều các dạng như tiên cưỡi rồng, hạc, phượng,
thậm chí phía dưới chân bia còn có những hình ảnh như tôm, cua, cá, hay
khỉ… Xen lẫn vào đó là những biểu tượng tùng, cúc, trúc mai của văn
hóa Nho giáo. Điều này cho thấy tính chất giải Hoa và tâm thức dân gian
đậm nét. Chúng đồng thời bộc lộ ra tính cách tự do phóng túng của
người Việt trong việc tạo tác các hình thức biểu tượng, mà đôi khi ưu
điểm này lại trở thành nhược điểm bới tính tùy tiện của các nghệ nhân
dân gian. Đôi khi trên một số trán bia người ta còn thấy ở đó tính chất
trào lộng dân gian rất đậm nét được vận dụng theo kiểu liên tưởng giữa
biểu tượng và nghĩa chữ. Ví dụ trên một tấm bia phong hầu thế kỷ XVII
người ta đã khắc vào đó hình ảnh của một con ong (phong) và một con khỉ
(hầu), bên cạnh hai chữ phong hầu, hay trên một đồ án khác lại có hình
ảnh con khỉ cưỡi trên lưng ngựa có nghĩa là “thượng mã phong hầu”[28] v.v. Những biểu tượng mang nghĩa chữ như vậy rất phổ biến trong nghệ thuật chạm khắc bia đá thời Lê – Trịnh.
Biểu tượng rồng trong nghệ thuật thời
Lê - Trịnh cũng có những nét chuyển biến nhất định. Nó đã kiến tạo nên
những nét phóng túng là làm nên sự đa dạng trong văn hóa Việt. Con rồng
dường như được nhìn và thể hiện trên nhiều góc độ khác nhau, lối
chuyển động của mình rồng cũng vô cùng đa dạng. Các mô típ rồng hóa
mây, hóa lá, hóa trúc bắt đầu phát triển từ thời Lê Sơ thì đến giai
đoạn này đã tạo nên được những dạng vẻ vô cùng phong phú. Trên các cốn,
bẩy, đầu dư, hình tượng rồng như tràn vào đình làng tạo thành biểu
tượng của làng xã. Những con rồng không biểu tượng cho vua nữa mà trở
thành biểu tượng cho nền văn hóa nông nghiệp, biểu tượng cho nguồn
nước, cho nên ở giai đoạn thế kỷ XVII – XVIII, những con rồng này chỉ
có 3 đến 4 móng, mà không bao giờ xuất hiện dạng rồng năm móng ở những
chốn này. Sự xuất hiện của rồng đơn, rồng ổ, tiên cưỡi rồng thổi sáo
đánh đàn và rồng trong đám quần ngư tranh thực, hay được chạm chung với
cua, cá … đã trở thành một hình ảnh quen thuộc đối với hầu hết những
người dân. Người ta cũng bắt gặp những biểu tượng rồng được gắn với
biểu tượng của nghĩa chữ như trên các đồ án trên bia đá. Con rồng với
những đôi tai như những chiếc cánh dơi, đã trở thành biểu tượng của
điềm lành. Có lẽ đây chính là điểm đặc sắc nhất của nghệ thuật thời Lê
Trung Hưng, mà người ta có thể thấy được tính chất giải Hoa hoàn toàn
trên các biểu tượng con rồng.
Ngoài ra biểu tượng phượng cũng vậy,
dường như không có bất kỳ tính quy chuẩn nào cho những hình tượng này.
Thậm chí ở một số di tích thuộc cấp quốc gia như đền Vua Đinh, Gia
Viễn, Ninh Bình, những con phượng được chạm trên trán bia được hình
dung như những con gà cồ. Hình ảnh kỳ lân (kỳ là con đực, lân là con
cái), nghê, hay ly, xô trên mái đình cũng như những chạm khắc trong các
đình làng là những con vật hư cấu có dạng vẻ gần giống nhau đã được
thể hiện vô cùng phong phú. Chúng vừa có những nét học được từ biểu
tượng sư tử vờn cầu của nghệ thuật Trung Hoa, nhưng cũng ngay lập tức
biến báo cho phù hợp với thẩm mỹ của người Việt. Như vậy có thể nói bộ
tứ linh vốn được nhập từ văn hóa Trung Hoa vào Việt Nam, nhưng người
Việt đã sáng tạo ra những biểu tượng, kiểu dạng tứ linh của riêng mình
và cũng đặt cho chúng những tên gọi khác nhau cho mình mà không theo
những mẫu thức có sẵn của Trung Hoa.
Cùng với di sản kiến trúc, chùa Bút
Tháp còn có hệ thống tượng pháp được coi là đỉnh cao của nghệ thuật
Phật giáo và nghệ thuật điêu khắc tượng chân dung của Việt Nam. Hàng
loạt những tượng chân dung các vị hoàng thân quốc thích hiện nay được
đặt trong các ngai thờ nhà Tổ của chùa là một minh chứng rất rõ rệt cho
sự phát triển đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc chân dung thế kỷ XVII.
Không chỉ chân dung mà tính chân thực của những trang phục được điêu
khắc cũng giúp chúng ta hình dung được đời sống vương phủ trước đây.
Không chỉ thế, do các bà hoàng đã qui y Phật pháp nên trên các đồ phục
trang người ta thường thấy các vị có đội mũ Quan Âm có gắn tượng đức
Adiđà nhỏ ở phía trước mũ. Đây cũng là sáng tạo độc đáo của các nghệ
nhân dân gian.
Những pho tượng như Quan Âm Thiên Thủ
Thiên Nhãn, hay tượng Tuyết Sơn, có thể chịu ảnh hưởng một phần từ nghệ
thuật điêu khắc Trung Hoa, nhưng nó đã trở nên thuần Việt và dung dị.
Trên gương mặt của các vị Phật này người ta ít thấy tính chất lý tưởng
hóa một cách khô cứng hay thị uy như nghệ thuật Trung Hoa, mà là lòng
từ, là sự gần gũi phổ độ chúng sinh. Đó cũng là tinh thần của Phật giáo
Việt Nam, nơi bất cứ người dân thường nào cũng có thể tìm đến và san
sẻ niềm đau nỗi khổ, tìm được những giây phút thanh thản trong cõi
lòng.
3. Nghệ thuật gốm sứ Lê
Trung hưng cũng là một nét nổi bật của thời kỳ này. Dưới thời Lê Trung
hưng, do việc mở rộng giao thương, các thuyền buôn Anh, Hà Lan, Nhật
Bản giới quý tộc cũng đã dùng các đồ gốm sứ ngoại, do được biếu tặng.
Đặng tộc gia phả có ghi lại được bài thơ dâng đồ quý lên Trịnh Cương
gồm nậm rượu và ấm pha trà của Trung Hoa, đồ sứ Nhật Bản, đồ thủy tinh
Hòa Lan. Việc dùng đồ ngoại quốc tất nhiên là không loại trừ nhưng
chúng ta ai cũng biết rằng các chúa Trịnh đã cho người sang Trung Hoa
đặt làm rất nhiều chủng loại đồ sứ. Đồ sứ ấy gọi là đồ sứ ký kiểu. Nhà
chúa cũng ra qui định từ hoàng tử đến cac vương thân và quan lại đều
được dùng đồ ký kiểu Trung Hoa nhưng trừ những thứ vẽ rồng năm móng. Và
“để cho có những dấu ấn riêng biệt nhà Trịnh đã cho vẽ mẫu phong cảnh
đất Việt, trang trí hoa lá, thảo trùng Việt để dùng trong vương triều
mang tính dân tộc tự chủ cao”[29].
Điều này cho thấy mặc dầu dùng đồ Trung Hoa nhưng, không hề phụ thuộc
vào các sản phẩm đó, mà các chúa đã biết tạo ra cho mình một bản sắc
riêng.
Theo như giới nghiên cứu cũng như giới
sành cổ ngoạn, thì đồ sứ ký kiểu thời Lê – Trịnh được đánh giá cao, rất
có giá trên thị trường cổ vật ở khu vực và trên thế giới.
.
.
Ngoài ra trong các hình thức nghệ thuật
giai đoạn này thì đồ gốm men lam đặc biệt phát triển. Gốm men lam thời
Lê Trung Hưng dường như đã được kế thừa một thành quả to lớn từ kiểu
dáng đến kỹ thuật gốm thời Mạc. Cốt gốm dày thô, các kiểu đắp, khắc
cũng được tận dụng như một lợi thế to lớn trong việc tạo ra sự thay đổi
trên cùng một sản phẩm gốm. Các hình thức hoa văn trên các đĩa, lọ,
chân đèn vốn đã khá phát triển vào thời Mạc, thì nay thêm phần phóng
túng. Có lẽ do sự ảnh hưởng của đồ sứ ký kiểu nhập từ Trung Hoa, nên
giai đoạn này xuất hiện khá nhiều những mẫu hình kiểu Trung Hoa trên
các sản phẩm này. Nó là sự pha trộn giữa thẩm mỹ dân gian và thẩm mỹ
cung đình, nhưng đồng thời trên chính các mẫu thức này người ta lại
thấy ý thức giải Hoa rất rõ ràng. Cùng là mô típ họa tiết đó, nhưng các
nghệ nhân đã cố tình thay đổi sao cho chúng có vẻ thuần Việt. Những
họa tiết như chim loan, chim trĩ, đặc biệt là các con long mã dỡn sóng
hay long mã đội chữ Thọ rất sinh động và có tính tượng trưng cao độ.
Đặc biệt hơn nữa là các dạng họa tiết như sen - cua hay sen - uyên
ương, rồi các mẫu cá trên các đĩa như thế một bức tranh khái lược trên
gốm.
Minh văn cũng là một đặc trưng cho loại
hình gốm thời Lê Trung Hưng, nó là sự kế thừa phát triển từ thời Mạc.
Không chỉ chữ Hán, mà người ta còn khắc vẽ cả chữ Nôm lên các bình lọ
gốm hay chân đèn thời này. Có rất nhiều cách thức khắc vẽ chữ Hán Nôm
lên gốm như khắc chìm đúc nổi, hoặc khắc rồi phủ mem lên cũng có trường
hợp viết bằng men trực tiếp lên cốt gốm, nhưng đa phần lối khắc vẽ này
thường theo dạng chữ chân phương, dường như không thấy có trường hợp
nào dùng lối chữ triện hay bố cục khối chữ triện như trên đồ gốm sứ
Trung Hoa. Những chữ đầu dòng thuộc niên hiệu hay vương triều thường
được khắc viết “đài” theo qui định tôn kính giống như trên bia ký. Thậm
chí lối viết tắt cũng chỉ thấy trong các dạng văn tự Việt, như trường
hợp hai chữ “Vạn” liền nhau, thì chữ “vạn” thứ 2 được ký hiệu. Điều này
không bao giờ xảy ra trong lối hành văn Trung Hoa. Trên các lư hương
thế kỷ XVII lối viết minh văn dưới đế rất phổ biến, khác xa với lối
viết minh văn của gốm Mạc trước đó[30].
Ngoài ra giai đoạn này còn có thêm dạng
men rạn kết hợp với rất nhiều những hình đắp nổi đề tài tứ linh, tứ
quí, cũng tạo nên những sản phẩm độc đáo. Các dạng ấm con phượng hay
chân đèn con nghê đội cũng cho người ta thấy sự phát triển đến trình độ
cao trong kỹ thuật gốm sứ giai đoạn này.
4. Nghệ thuật âm nhạc và vũ đạo
thời Lê – Trịnh cũng có nhiều điểm đáng chú ý, thể hiện được một tinh
thần xây dựng một nền văn hóa thuần Việt, phi Hoa, đối thoại với Trung
Hoa.
Với âm nhạc, đó là một lối hát cửa
quyền được diễn ra trong phủ chúa và các dinh thự lớn. Biên chế dàn
nhạc trong cung gồm: trúc sinh (đàn khô), thiết huyền sắt, đàn cửu
huyền, đàn thất huyền, đàn tranh. Phạm Đình Hổ ghi nhận: “Tiếng hát
trong cung trau chuốt, uyển chuyển, thanh nhã”[31].
Những điệu hát ca trù cổ, tương truyền
có từ thời Lê Trịnh như điệu Thét nhạc, điệu Bắc phản đều dùng lời ca
tiếng Việt (chữ Nôm) mà không dùng lời chữ Hán. Trong dân gian, âm nhạc
giáo phường rất thịnh hành. Theo Phạm Đình Hổ, nhạc khí trong giáo
phường đã rất phong phú, gồm: trường trúc, trúc địch (tiêu), yêu cổ
(trống cơm), đới cầm (đàn đáy), địch quản (quyển nhị), phách, sênh, đan
diện cổ (trống mảnh)[32].
Dưới thời Lê Trung hưng, các chúa Trịnh
cho tổ chức đội quân nhạc Bả lệnh Ngũ quân có từ thời Lê Sơ thành ra
đội Bả lệnh để “nắm giữ việc âm nhạc trong phủ chúa và các tư gia”.
“Quan phủ có việc cần đến hoặc các việc tang tế trong dân gian đều do
đội Bả lệnh làm”. Biên chế dàn nhạc của đội Bả lệnh có: trống, mõ,
trống phong yêu (trống tầm bông), xúy quản (kèn), tiểu xúy quản (kèn
tiểu), trùng quyển xúy quản (kèn tổ sâu)[33].
Nhận xét về nghệ thuật nhà Trịnh, sách
Mỹ thuật Châu Á viết: “Nghệ thuật nhà Trịnh (1533 – 1789) được đánh dấu
là từ cuối thế kỷ 16 bằng sự phát triển các công trình tưởng nhớ tổ
tiên và các anh hùng dân tộc …phục hưng các công trình nghệ thuật cổ:
Xu hướng “dân tộc” đã dẫn đến trong các lĩnh vực trang trí điêu khắc,
từ bỏ các đề tài chịu ảnh hưởng của Trung Hoa, thay thế bằng một phong
cách và quan niệm thẩm mỹ độc đáo hơn với các hình dạng phức tạp hơn”[36].
Kết luận:
Kết luận:
1. Từ thành tựu kinh tế, chính
trị và ngoại giao các chúa Trịnh đã tỏ rõ ý đồ xây dựng một nền văn hóa
Đại Việt độc lập, trong thế phi Hoa, giải Hoa, và đối thoại với Trung
Hoa.
2. Ý chí đó của các chúa Trịnh
đã được thể hiện trên nhiều lĩnh vực văn hóa: Lễ nhạc và văn chương,
kiến trúc, điêu khắc, gốm sứ, âm nhạc và vũ đạo, trang phục, ẩm thực.
Cách thể hiện ở mỗi lĩnh vực có khác nhau, nhưng đã cho thấy rõ ràng ý
đồ gây dựng nền văn hóa thuần Việt từ triều đình, phủ chúa đến nhân
dân, từ trong Kinh ra ngoài trấn, từ quan lại đến bách tính.
3. Văn hóa Đại Việt dưới thời Lê
– Trịnh do các chúa Trịnh dốc lòng khởi xướng và thực hành đã để lại
một di sản lớn cho đất nước, bao gồm cả di sản văn hóa vật thể và phi
vật thể. Nền văn hóa Đại Việt được gây dựng dưới đời Lê Trung hưng là
sản phẩm của một thời kỳ lịch sử đặc biệt, làm nên sự khác biệt với các
thời kỳ trước và sau đó. Sự khác biệt đó trước hết là do các triều đại
trước đó đã rập khuôn theo với Trung Hoa một cách cứng nhắc mà không
hề tính đến việc phải giải Hoa, đối thoại với Trung Hoa, còn triều
Nguyễn sau này thì rập khuôn máy móc theo Trung Hoa và tước đoạt đi sự
sáng tạo và tinh thần Việt phóng khoáng trên mỗi một tác phẩm nghệ
thuật.
4. Mặc dù đã có các công trình
nghiên cứu, các hội thảo đánh giá về nhà Trịnh nhưng nhiều vấn đề vẫn
còn đang bỏ ngỏ, nhiều tư liệu chưa được tập hợp, đánh giá khai thác để
có thể tiếp thu và phát huy di sản văn hóa của thời đại Lê Trung hưng
trong thời đại mới. Vì thế, vấn đề văn hóa và nghệ thuật Lê – Trịnh vẫn
cần được nghiên cứu và thảo luận sâu hơn nữa, để hiểu biết về thời đại
Lê Trung hưng ngày càng được rõ ràng và khoa học.
.
.
Hà Nội, tháng 6 năm 2009.
Tài liệu tham khảo chính:
1. Cẩm nang đồ gốm Việt Nam có minh văn
thế kỷ XV – XIX. Nguyễn Đình Chiến. Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
xuất bản, 1999, 225 tr.
2. Chúa Trịnh - Vị trí và vai trò lịch sử. Kỷ yếu Hội thảo khoa học. Ban Nghiên cứu và Biên soạn Lịch sử Thanh Hóa xuất bản, 1995.
3. Đại Việt sử ký toàn thư. 4 tập. Nxb KHXH, H, 1993.
4. Điêu khắc cổ Việt Nam. Phan Cẩm Thượng. Nxb Mỹ thuật, H, 1997.
5. Hình tượng con người trong chạm khắc cổ Việt Nam. Nhiều tác giả. ĐH Mỹ thuật Hà Nội xuất bản, 2002.
6. Họ Trịnh và Thăng Long. Bỉnh Di và Quang Vũ. Nxb. Văn hóa dân tộc, H, 2000. 187 tr.
7. Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Quốc sử quán triều Nguyễn. Hai tập. Nxb. Giáo dục, H, 1998.
8. Lịch sử và Nghệ thuật Ca trù. Nguyễn Xuân Diện. Nxb. Thế Giới, H, 2007, 210 tr.
9. Lịch triều hiến chương loại chí . Phan Huy Chú. 2 tập. Nxb. Giáo dục, H, 2007.
10. Nghiên cứu tư tưởng Nho gia Việt Nam từ hướng tiếp cận liên ngành. Nhiều tác giả. Nxb. Thế giới, 2009. 858 tr.
11. Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam. Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề. Bản in lại . Nxb.Văn học , H. 1992.
12. Tháp Cửu phẩm liên hoa trong kiến trúc cổ Việt Nam. Trang Thanh Hiền. Nxb. Thế Giới, H, 2006.
13. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Tập I. Trần Văn Giáp. Nxb. Văn hóa, H. 1984.
14. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Tập II. Trần Văn Giáp. Nxb. KHXH, H. 1990.
15. Tổng tập Văn học Nôm. Tập II. Nguyễn Tá Nhí chủ biên. Nxb. KHXH, H, 2008, 717 tr.
16. Tổng tập Văn học Việt Nam. Tập 5. Bùi Duy Tân chủ biên. Nxb. KHXH, H, 2000.
17. Trang phục triều Lê – Trịnh. Họa sĩ Trịnh Quang Vũ. Nxb. Từ điển Bách khoa, H, 2008.
18. Trịnh Sâm cuộc đời và sự nghiệp. Nhiều tác giả. Nxb. Văn hóa thông tin, H, 2009. 315 tr.
19. Từ điển Nhân vật lịch sử Việt Nam Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế. Nxb. KHXH, H. 1991.
20. Từ điển tác gia văn hóa Việt Nam. Nguyễn Quang Thắng.. Nxb. Văn hóa Thông tin, H. 1999.
21. Tuyển tập Thơ Ca trù. Ngô Linh Ngọc - Ngô Văn Phú:. Nxb. Văn học, H. 1987.
22. Việt Nam ca trù biên khảo. Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề. Sài Gòn, 1962.
23. Vũ trung tùy bút. Phạm Đình Hổ. Trần Thị Kim Anh khảo cứu văn bản, dịch, chú thích và giới thiệu. Nxb. KHXH, H. 2003. 503 tr.
2. Chúa Trịnh - Vị trí và vai trò lịch sử. Kỷ yếu Hội thảo khoa học. Ban Nghiên cứu và Biên soạn Lịch sử Thanh Hóa xuất bản, 1995.
3. Đại Việt sử ký toàn thư. 4 tập. Nxb KHXH, H, 1993.
4. Điêu khắc cổ Việt Nam. Phan Cẩm Thượng. Nxb Mỹ thuật, H, 1997.
5. Hình tượng con người trong chạm khắc cổ Việt Nam. Nhiều tác giả. ĐH Mỹ thuật Hà Nội xuất bản, 2002.
6. Họ Trịnh và Thăng Long. Bỉnh Di và Quang Vũ. Nxb. Văn hóa dân tộc, H, 2000. 187 tr.
7. Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Quốc sử quán triều Nguyễn. Hai tập. Nxb. Giáo dục, H, 1998.
8. Lịch sử và Nghệ thuật Ca trù. Nguyễn Xuân Diện. Nxb. Thế Giới, H, 2007, 210 tr.
9. Lịch triều hiến chương loại chí . Phan Huy Chú. 2 tập. Nxb. Giáo dục, H, 2007.
10. Nghiên cứu tư tưởng Nho gia Việt Nam từ hướng tiếp cận liên ngành. Nhiều tác giả. Nxb. Thế giới, 2009. 858 tr.
11. Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam. Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề. Bản in lại . Nxb.Văn học , H. 1992.
12. Tháp Cửu phẩm liên hoa trong kiến trúc cổ Việt Nam. Trang Thanh Hiền. Nxb. Thế Giới, H, 2006.
13. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Tập I. Trần Văn Giáp. Nxb. Văn hóa, H. 1984.
14. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Tập II. Trần Văn Giáp. Nxb. KHXH, H. 1990.
15. Tổng tập Văn học Nôm. Tập II. Nguyễn Tá Nhí chủ biên. Nxb. KHXH, H, 2008, 717 tr.
16. Tổng tập Văn học Việt Nam. Tập 5. Bùi Duy Tân chủ biên. Nxb. KHXH, H, 2000.
17. Trang phục triều Lê – Trịnh. Họa sĩ Trịnh Quang Vũ. Nxb. Từ điển Bách khoa, H, 2008.
18. Trịnh Sâm cuộc đời và sự nghiệp. Nhiều tác giả. Nxb. Văn hóa thông tin, H, 2009. 315 tr.
19. Từ điển Nhân vật lịch sử Việt Nam Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế. Nxb. KHXH, H. 1991.
20. Từ điển tác gia văn hóa Việt Nam. Nguyễn Quang Thắng.. Nxb. Văn hóa Thông tin, H. 1999.
21. Tuyển tập Thơ Ca trù. Ngô Linh Ngọc - Ngô Văn Phú:. Nxb. Văn học, H. 1987.
22. Việt Nam ca trù biên khảo. Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề. Sài Gòn, 1962.
23. Vũ trung tùy bút. Phạm Đình Hổ. Trần Thị Kim Anh khảo cứu văn bản, dịch, chú thích và giới thiệu. Nxb. KHXH, H. 2003. 503 tr.
CHÚ THÍCH:
[1] Trần Ngọc Vương, với bài Lưỡng đầu chế thời Lê Trịnh và những hệ quả lịch sử của nó, in trong sách Nghiên cứu tư tưởng Nho gia Việt Nam từ hướng tiếp cận liên ngành. Nxb. Thế giới, 2009, tr. 630-657; và Bùi Thiết với bài Thử lý giải hiện tượng song trùng quyền lực vua Lê – chúa Trịnh trong lịch sử Việt Nam, in trong sách Trịnh Sâm cuộc đời và sự nghiệp. Nxb. VHTT, H, 2009, tr.103-107.[2] Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Bản dịch. Tập Hai. Nxb. Giáo dục, H, 1998. tr. 466.[3] Lịch triều hiến chương loại chí. Phan Huy Chú. Tập Hai. Nxb. Giáo dục, H. 2007, tr. 139 – 140.[4] Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Bản dịch. Tập Hai. Nxb. Giáo dục, H, 1998. tr. 258.[5] Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Bản dịch. Tập Hai. Nxb. Giáo dục, H, 1998. tr. 262.[6] Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Bản dịch. Tập Hai. Nxb. Giáo dục, H, 1998. tr. 416.[7] Bỉnh Di và Quang Vũ: Họ Trịnh và Thăng Long. Nxb. Văn hóa dân tộc. H, 2000, tr. 84-85.[8] Nguyễn Xuân Diện và Đinh Thanh Hiếu: Về năm bản nhạc chương Nôm đời Lê. Tạp chí Hán Nôm số 4 (45) – 2000, tr. 62 – 72.[9] Tổng tập Văn học Nôm. Tập 2. Nguyễn Tá Nhí chủ biên. Nxb. KHXH, H, 2008, tr.20-21.[10] Tổng tập Văn học Nôm. Nguyễn Tá Nhí chủ biên. Nxb. KHXH, H, 2009.[11] Nguyễn Xuân Diện Về bài Ngự chế Quốc âm từ khúc của Trịnh Sâm trong sách Bình Ninh thực lục. Tạp chí Hán Nôm số 1 (62) – 2004, tr. 68 – 73.[12] Các tác giả của Việt Nam ca trù biên khảo dẫn sách Ca trù bị khảo, cho rằng “Lối Thổng do chúa Trịnh đặt ra nên gọi là Thổng cửa quyền”(sdd, tr.67). Hiện nay chưa tìm được tài liệu Hán Nôm nào khẳng định chúa Trịnh (Trịnh Sâm) là người sáng tạo ra điệu Thổng trong ca trù. Và hiện cũng chưa tìm được cuốn Ca trù bị khảo mà Việt Nam ca trù biên khảo dẫn.[13] Trịnh Sâm cuộc đời và sự nghiệp. Nxb. VHTT, H, tr. 194 – 203.[14] Xem: Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa. Trần Xuân Ngọc Lan phiên âm và chú giải, Nxb. KHXH, H, 1985, 260 tr. Và bài Thông tin mới nhất về Chỉ nam ngọc âm của Ngô Đức Thọ trên tạp chí Hán Nôm số 3 (70) – 2005, tr 25-35. Ngoài ra, các tác giả Trần Văn Giáp (1969), Hoa Bằng (1971), Nguyễn Tài Cẩn (1985), Đào Duy Anh (1975), Lê Văn Quán (1981) cũng có các nhận xét và nghiên cứu về văn bản Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa.[15] Tổng tập Văn học Việt Nam. Tập 6. Nxb. KHXH, Hà Nội, 2000, tr. 16.[16] Lê triều chiếu lệnh thiện chính. Bản chữ Hán A.257. Dẫn theo Tổng tập Văn học Việt Nam. Tập 6. Nxb. KHXH, Hà Nội, 2000, tr. 16-17.[17] Tổng tập Văn học Việt Nam. Tập 6. Nxb. KHXH, Hà Nội, 2000, tr. 17.[18] Tổng tập Văn học Việt Nam. Tập 6. Nxb. KHXH, Hà Nội, 2000, tr. 17.[19] Xem: Họ Trịnh và Thăng Long của Bỉnh Di và Quang Vũ. Nxb. VHDT, H.2000, tr. 94-95.[20] Bình Di và Quang Vũ: Họ Trịnh và Thăng Long. Nxb. Văn hóa dân tộc, H, 2000, tr. 113.[21] Phạm Đình Hổ: Vũ trung tùy bút. Trần Thị Kim Anh khảo cứu văn bản, dịch, chú thích và giới thiệu. Nxb. KHXH, H. 2003, tr. 208.[22] Bỉnh Di và Quang Vũ: Họ Trịnh và Thăng Long. Nxb Văn hóa dân tộc, H, 2000, tr. 144.[23] Phạm Đình Hổ: Vũ trung tùy bút. Trần Thị Kim Anh khảo cứu văn bản, dịch, chú thích và giới thiệu. Nxb. KHXH, H. 2003, tr. 36-37.[24] Nguyễn Duy Hinh: Yếu tố Hoa – Việt trong kiến trúc chùa chiền Việt Nam. In trong sách Bước đầu tìm hiểu sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa Việt – Hoa trong lịch sử. Nxb. Thế giới, H, 1988. tr. 129 – 148.[25] Trang Thanh Hiền: Tháp Cửu phẩm liên hoa trong kiến trúc cổ Việt Nam. Nxb. Thế Giới, H, 2006.[26] Phan Cẩm Thượng: Chùa Bút Tháp. Nxb Mỹ thuật, H, 1996.[27] Nguyễn Khắc Tụng: Nhận biết yếu tố Hoa – Việt trong kiến trúc nhà ở cổ truyền của người Việt và ngược lại. In trong sách Bước đầu tìm hiểu sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa Việt – Hoa trong lịch sử. Nxb. Thế giới, H, 1988. tr. 122.[28] Trần Hậu Yên Thế: Lời thuyết minh trong triển lãm Các phương pháp nghiên cứu mỹ thuật cổ. ĐH Mỹ thuật, tháng 4 năm 2009.[29] Bình Di và Quang Vũ: Họ Trịnh và Thăng Long. Nxb Văn hóa dân tộc, H, 2000, tr. 150.[30] Nguyễn Đình Chiến: Cẩm nang đồ gốm Việt Nam có minh văn thế kỷ XV – XIX, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, H 1999.[31] Phạm Đình Hổ: Vũ trung tùy bút. Trần Thị Kim Anh khảo cứu văn bản, dịch, chú thích và giới thiệu. Nxb. KHXH, H. 2003, tr. 85.[32] Phạm Đình Hổ: Vũ trung tùy bút. Trần Thị Kim Anh khảo cứu văn bản, dịch, chú thích và giới thiệu. Nxb. KHXH, H. 2003, tr. 83 – 84.[33] Phạm Đình Hổ: Vũ trung tùy bút. Trần Thị Kim Anh khảo cứu văn bản, dịch, chú thích và giới thiệu. Nxb. KHXH, H. 2003, tr. 81 – 82 và 85 - 86.[34] Trịnh Quang Vũ: Trang phục triều Lê – Trịnh. Nxb. Từ điển Bách khoa, H. 2008. 363 tr.[35] Xem bài Chúa Trịnh Sâm nâng cao nghệ thuật trà Việt của Trương Thị Kim Dung, in trong sách Trịnh Sâm cuộc đời và sự nghiệp. Nxb. VHTT, H. 2009, tr. 248- 253.[36] Dẫn theo Trịnh Quang Vũ: Trang phục triều Lê – Trịnh. Nxb. Từ điển Bách khoa, H. 2008. tr. 10.
*Bài đã đăng trên tạp chí Văn hóa Dân gian.