LỬA TỪ ĐÂU
ĐẾN?
Hai năm qua
kể từ sau Đại hội, nhân vật nổi bật nhất trên chính trường Việt Nam không ai
khác chính là Nguyễn Phú Trọng.
Màn đốt lò
của ông là chiến dịch chính trị đáng chú ý nhất trong nội bộ đảng cầm quyền vài
ba thập kỷ trở lại đây, chẳng những đã thiêu rụi sinh mệnh chính trị của hàng
chục cán bộ, tướng tá cao cấp, mà lúc đạt nhiệt độ cao nhất thậm chí còn hóa
củi một đương kim ủy viên Bộ Chính trị.
Trong khi
các nhà quan sát có thể nhanh chóng đồng thuận về mức độ chưa có tiền lệ của
chiến dịch chính trị này, không dễ để có được tiếng nói chung về động cơ và
viễn cảnh của nó.
Không ít người
tin rằng mục tiêu hàng đầu của chiến dịch là chống tham nhũng, theo đúng cách
mà ông Trọng muốn dư luận nhìn nhận. Tuy nhiên, chẳng cần là quan chức chính
quyền để nhận ra tham nhũng ở Việt Nam đặc thù cho hệ thống chính trị thiếu
vắng kiềm chế và đối trọng hiện hành và được biện minh như là giải pháp cho một
chế độ lương bổng bất hợp lý; bởi vậy, sẽ chẳng thể nào có chuyển biến chỉ bằng
việc bỏ vài thanh củi vào lò, trong khi những nguyên nhân căn bản tạo ra quá
trình “củi hóa” trên diện rộng vẫn chưa được giải quyết.
Ngay cả khi
có nghe được những lời tán dương trong nội bộ, hơn ai hết, ông Trọng thừa hiểu
đa phần những đồng chí đang tung hô và đứng về phía ông trong chiến dịch gọi là
chống tham nhũng này - các đảng viên cao cấp - đều vượt tiêu chuẩn trở thành
đối tượng của chính chiến dịch. Việc họ chọn chỗ đứng như thế đơn giản chỉ vì
‘ở đời phù thịnh chứ ai phù suy’, còn ông Trọng, như bao chính khách khác, luôn
cần đồng minh cho chiến dịch chính trị của mình.
Nhưng không
phải vì thế mà có thể cho rằng ông Trọng giống đa số những đồng chí cùng thời
với ông, tức là chỉ đang tìm kiếm lợi ích kim tiền cho cá nhân, gia đình và phe
nhóm của mình. Ngay những người hồ nghi nhất cũng khó có thể tin là ông Trọng
đang làm mọi thứ vì tiền bạc, trong khi chẳng có dấu hiệu gì dù là nhỏ nhất cho
thấy ông đang sắp đặt một vương triều cho thân nhân tiếp quản.
Chuyện thâu
tóm quyền lực để ôm ghế suốt đời như Tập Cận Bình lại càng xa lạ với thực tế
chính trị Việt Nam khi mà bộ máy được thiết kế để chẳng ai có đủ quyền để làm
điều gì đó lớn, như là kết quả từ cơn ám ảnh chưa bao giờ dứt về bóng ma
Gorbachez trong lòng người cộng sản Việt Nam.
Cũng có
nhiều đồn đoán chiến dịch của ông Trọng nhắm trực tiếp vào cựu Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng và mạng lưới thân tín của ông ta, song thực tế chiến dịch cho thấy
phạm vi, tính chất của nó chẳng hề giới hạn nơi một cá nhân cụ thể nào.
Vậy thì động
lực thực sự của chiến dịch là gì? Hay nói cách khác, lửa đốt lò từ đâu mà đến?
NGOÀI ĐẢNG
CHẲNG CÓ TRỜI
Để trả lời
câu hỏi trên, trước tiên cần một nỗ lực phác thảo chân dung ông Trọng. Không
khó để nhận ra qua các bài viết, bài nói và cả hành động của ông Trọng một cán
bộ quan liêu cộng sản kiểu cũ điển hình - một kiểu người mà ngoài Đảng ra thì
không có trời.
Đắm chìm cả
đời trong phương pháp luật mác-xít về chính trị, nhãn quan chính trị của ông
Trọng bị kẹt trong trật tự kiểu cũ của thể chế cộng sản, nơi mà “sự lãnh đạo
tuyệt đối của Đảng” được diễn dịch là “sự lãnh đạo tuyệt đối của hệ thống quan
liêu trong Đảng - tức các thiết chế nội bộ Đảng như các Ban đảng” (có thể tạm
gọi là “Phe Đảng”). Trật tự này gắn liền với nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, nơi chỉ thị và nghị quyết của cấp ủy đảng là công cụ điều hành xã hội
chính yếu, và đồng nghĩa với đó, các Ban đảng trở thành nơi tập trung quyền lực
của hệ thống.
Tất cả đã
khác đi khi Việt Nam bắt đầu chuyển đổi mô hình sang kinh tế thị trường (một
phần), dẫn đến nhu cầu quản lý kinh tế - xã hội bằng pháp luật. Mà muốn thế thì
vai trò của các cơ cấu tạo ra và thi hành pháp luật trở nên ngày một quan
trọng. Từ Võ Văn Kiệt đến Phan Văn Khải đã chứng kiến sự chuyển dịch quyền lực
từ Văn phòng Trung ương Đảng sang Văn phòng Chính phủ. Quá trình chuyển dịch
này đạt cao điểm dưới thời Nguyễn Tấn Dũng khi hàng loạt Ban Đảng đã phải giải
thể hoặc sáp nhập.
Phe Chính
phủ bằng cách đó đã hình thành và lớn mạnh bằng một tốc độ gây chóng mặt Phe
Đảng. Họ chiếm cứ lợi ích kim tiền gắn liền với vai trò quản lý nguồn lực quốc
gia mà họ được giao phó, chỉ nhường lại Phe Đảng những trận địa truyền thống
bao gồm nhân sự, tổ chức bộ máy và tuyên truyền. Thậm chí, dưới thời Nguyễn Tấn
Dũng, Phe Chính phủ còn không ít lần lấn sân cả sang cả những trận địa này.
Sự suy yếu
của Phe Đảng ngay lập tức gia tăng mức độ ly khai của các cơ cấu khác khỏi vòng
kiềm tỏa của nó, trong đó nổi bật lên là Phe Công an, Phe Quân đội và Thế lực
địa phương với động lực đến từ xung đột cấu trúc (structural conflict) cố hữu
cộng với mức độ tự chủ nhất định của các thế lực ly khai, nhất là về mặt tài chính.
Nếu xu hướng
này tiếp tục, trật tự kiểu cũ của thể chế cộng sản như nó nên là trong nhãn
quan Nguyễn Phú Trọng chắc chắn sẽ sụp đổ. Bởi thế, chẳng phải tham nhũng, cũng
không hề là một cá nhân cụ thể, hay động lực kim tiền, mà chính nguy cơ đổ vỡ trật
tự khi mà các cơ cấu ly khai khỏi vòng kiềm tỏa của Phe Đảng, mới đích thị là
mối bận tâm lớn nhất của ông Trọng khi người bôn-sê-vích cuối cùng của Việt Nam
này tin rằng ông đang mang trọng trách bằng mọi giá phải giữ cho Đảng được
trường tồn.
BỐN HƯỚNG
TẤN CÔNG
Không cần
đợi đến Đại Hội XII, ông Trọng, trong vài năm trước đó, đã có những động thái
nhằm tái lập trật tự: Chuyển Ban Chỉ đạo Phòng Chống Tham nhũng từ Chính phủ
sang Đảng, tái lập Ban Nội chính và Ban Kinh tế TW, trước khi dùng lá bài luân
chuyển cán bộ đưa hàng chục Ủy viên TW là Bí thư các tỉnh thành về củng cố
quyền lực cho các Ban Đảng.
Tuy nhiên,
phải đến sau Đại Hội với sự thúc thủ của đối thủ chính trị nguy hiểm nhất, ông
Trọng mới rảnh tay để thực hiện những bước đi chiến lược. Là bậc thầy về quy
chế Đảng, ông Trọng dễ dàng có được sự đồng thuận của BCHTW đối với các nghị
quyết khẳng định quyền lực tối cao của Bộ Chính trị, Ban Bí thư với sinh mệnh
chính trị của tất cả đảng viên cao cấp. BCHTW, dưới quy chế mới, sẽ chẳng thể
nào làm phao cứu sinh thêm được nữa cho những cán bộ đã bị Bộ Chính trị quyết
định kỷ luật, như từng xảy ra với Nguyễn Tấn Dũng trong nhiệm kỳ trước đây.
Sắp xếp quy
chế nội bộ chưa đủ, ông Trọng còn phải tiến hành những đợt tấn công ra bên
ngoài để thu phục các thế lực ly khai. Có 4 hướng tiến công chính:
Đầu tiên để
kiểm soát Phe Chính phủ vốn được coi là nguy hiểm nhất, ông ủng hộ một người mà
ông tin là dễ bảo nhất - Nguyễn Xuân Phúc. Để an tâm hơn, ông trực tiếp tham
gia Phiên họp Chính phủ thường kỳ trong một động thái có tính biểu tượng, đồng
thời tước quyền của Thủ tướng trong việc bổ nhiệm lãnh đạo các Tập đoàn nhà
nước, chuyển về cho Phe Đảng.
Tiếp theo
ông nhắm vào các thế lực địa phương được coi là cứng đầu nhất (nhiều lần bất
tuân trung ương), bao gồm Đà Nẵng và TPHCM, đào xới tận gốc rễ mạng lưới cố kết
quyền lực tại từng địa phương này nhằm gửi thông điệp tới các địa phương khác.
Hai thế lực
Công an và Quân đội chắc chắn khiến ông Trọng nhức đầu hơn rất nhiều, đơn giản
là cả hai đều có súng. Bởi thế, đầu tiên ông dọa hất đổ nồi cơm của Quân đội
bằng cách nói gần nói xa về việc cấm làm kinh tế. Tuy nhiên đây chỉ là đòn gió
để thu phục Phe Súng Lớn, để rồi sau đó dùng nó để tấn công Phe Súng Bé - Công
an.
Đối với Phe
Súng Bé, một mặt ông tham gia Đảng ủy Công an Trung ương để dễ bề kiểm soát từ
nhân sự, tổ chức cho tới vận hành, mặt khác tấn công ngay vào mạng lưới kinh
tài của họ - các công ty bình phong. Mất chỗ dựa tài chính, việc các tướng công
an phải quy phục Phe Đảng chỉ còn là vấn đề thời gian.
Chưa có dấu
hiệu gì cho thấy 4 hướng tấn công này sẽ sớm ngưng lại, nghĩa là, nhiều khả
năng sẽ tiếp tục ít nhất đến hết nhiệm kỳ này. Riêng Phe Súng Lớn - Quân đội,
trong nửa nhiệm kỳ đầu, vì nhiều lý do mà chưa bị nhắm đến nhiều dù nguy cơ và
mức độ ly khai chẳng hề kém cạnh Phe Công an, được dự đoán sẽ chứng kiến nhiều
đợt tấn công hơn, với nhiều hơn những tướng tá bị đưa vào lò.
VẤN ĐỀ ‘HÔN
QUÂN’
Tóm lại,
trong một thời gian không quá dài, bằng việc âm thầm cải sửa quy chế nội bộ lẫn
dồn dập tiến công chính trị theo 4 hướng trên, ông Trọng đã tương đối thành
công trong việc ngăn chặn xu hướng ly khai của các thế lực cơ cấu trong hệ
thống, đồng thời từng bước tái lập trật tự kiểu cũ với Phe Đảng làm trung tâm.
Tuy nhiên thành công này lại tiềm ẩn bên trong một thất bại nghiêm trọng: Đã
chẳng có bất kỳ cải cách đột phá nào về mặt thể chế nhằm chống tham nhũng và
kiểm soát quyền lực một cách hiệu quả trong khi vẫn giữ được vị thế độc tôn của
đảng. Điều này buộc ông Trọng phải quay về với giải pháp lỗi thời là kêu gọi
đức trị và tự mình, dựa trên thanh danh bản thân, sắm vai minh quân với một mức
độ tập trung quyền lực cao hơn.
Nhưng đó
cũng là lúc ông Trọng lót đường cho một cuộc khủng hoảng người kế nhiệm trong
hơn hai năm tới, khi mà chiếc áo đức trị ông để lại có vẻ quá rộng với tất cả
các ứng viên, còn quyền lực của vị trí Tổng Bí thư thì lại không ngừng được mở
rộng trong suốt nhiệm kỳ.
Nghĩa là,
vấn đề ‘hôn quân’ (‘bad emperor’ problem) - vấn đề cốt tử của mọi nền chính trị
thiếu vắng bầu cử tự do dân chủ, sẽ nhanh chóng xuất hiện với những hệ quả chưa
thể báo trước.