Châu Minh Dũng
1-9-2018
Chiến thuật “tằm ăn dâu” và “sự đã rồi” là hai thủ
đoạn ưa dùng của lãnh đạo Bắc Kinh để thỏa mãn cơn khát mở rộng lãnh thổ. Biển
Đông là khu vực nhiều lần chứng kiến Trung Quốc sử dụng hai thủ đoạn này. Tuy
nhiên, thực tế là chính các vùng, miền trên khắp đất nước Việt Nam lại là các
nơi Trung Quốc đã và đang ráo riết áp dụng “tằm ăn dâu” và “sự đã rồi”, tạo nên
nguy cơ rất lớn với chủ quyền Việt Nam.
Chiến thuật “tằm ăn dâu”, đúng như tên gọi của
nó, là duy trì một loạt các hành động
lấn tới ở biên độ nhỏ, giống như loài tằm ăn lá dâu, từ từ, chậm
rãi nhưng liên tục. Đến lúc thích hợp, một loạt các tác động nhỏ lẻ được tập
hợp, tích lũy sẽ tạo nên tác động, chuyển biến có tính chiến lược. Còn “sự đã
rồi” là chiến thuật đi kèm để bảo đảm hiệu quả và duy trì đà tiến của “tằm ăn
dâu”, giúp cho “tằm ăn dâu” hầu như không thể bị hoàn tác.
Đối với Biển Đông, “tằm ăn dâu” được áp dụng qua cách
Trung Quốc liên tục huy động cảnh sát biển và “dân quân trên biển” để gây hấn
và đe dọa các tàu dân sự của các nước khác. Bắc Kinh còn tạo “sự đã rồi” qua
việc bồi đắp, củng cố, tăng cường vũ trang hệ thống căn cứ trên các đảo nhân
tạo, để các nước có phản đối cũng không làm gì được, trừ khi chính thức tuyên
chiến.
Biển Đông là khu vực đứng giữa các tranh chấp quốc tế,
nên các diễn biến “tằm ăn dâu” và “sự đã rồi” của Trung Quốc được các nước quan
sát và tường thuật rất kỹ. Tuy nhiên, chuyện xảy ra trên đất liền Việt Nam lại
là chuyện hầu như của nội bộ người Việt, nên ít được nhắc tới, dù thực tế diễn
tiến “tằm ăn dâu” và “sự đã rồi” của Trung Quốc trong lãnh thổ Việt Nam còn dữ
dội hơn ở ngoài Biển Đông. Các thủ đoạn này được Trung Quốc áp dụng ở cả các
vùng biên giới, các khu vực hiểm yếu có ý nghĩa quân sự, thậm chí cả các khu
dân cư dọc theo đất nước Việt Nam và được che giấu cẩn thận bởi chính sự tiếp
tay của lãnh đạo và bộ máy tuyên truyền của chế độ cộng sản Việt Nam.
Từ những bất thường ở vùng biên giới…
Ngày 28/8/2018, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
công bố thông tư cho phép người dân sống ở vùng biên giới
Việt – Trung được giao dịch bằng đồng nhân dân tệ của Trung
Quốc, sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 12/10/2018. Sự việc có vẻ như đơn giản
nhằm “góp phần hoàn thiện chính sách thanh toán biên mậu, thúc đẩy hoạt động
thương mại biên giới giữa hai nước Việt – Trung”, nhưng thật ra chứa đựng
những toan tính rất hiểm độc kiểu “tằm ăn dâu” và “sự đã rồi”, và được tiếp tay
bởi chính lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Quá trình xâm lấn ở vùng biên giới được
khởi động bằng làn sóng “phủ đầu” của quyền lực mềm là tiền tệ.
Điều kỳ lạ là chưa đầy một tháng trước đây, ngay trong
bộ máy tuyên truyền của chế độ cộng sản Việt Nam đã có tiếng nói cảnh báo rủi
ro với chủ quyền bởi hoạt động “xâm lăng” tiền tệ. Trong bài: Phải xử lý nghiêm việc xâm phạm
“chủ quyền tiền tệ” trên Thời báo Kinh Tế Sài Gòn ngày
4/8/2018, LS Trần Đình Dũng trích dẫn điều 3, Pháp lệnh ngoại hối năm 2005: “thực
hiện mục tiêu trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam”.
Về mối liên hệ giữa tiền tệ và chủ quyền, tác giả còn
nhấn mạnh: “Bảo đảm các nguyên tắc về ‘chủ quyền tiền tệ’ là nhằm bảo đảm ổn
định nền kinh tế, không bị xâm lấn từ kinh tế bên ngoài, đặc biệt trong thời
đại ‘quyền lực mềm’ của các quốc gia tiên tiến phát huy nhanh tác dụng như hiện
nay”.
Bài viết lưu ý việc khách Trung Quốc mua hàng ở Việt
Nam lại quẹt thẻ của ngân hàng Trung Quốc và đề nghị các cơ quan hữu trách xử
lý việc vi phạm pháp luật này. Thì nay, các cơ quan hữu trách đã “xử lý” bằng
cách… hợp pháp hóa chuyện giao dịch bằng đồng nhân dân tệ ngay trên lãnh thổ
Việt Nam, bắt đầu từ các tỉnh biên giới!
Với hướng xử lý này, rõ ràng một số người viết có tâm
còn sót lại trong bộ máy tuyên truyền cộng sản cũng không thể lên tiếng cảnh
báo về rủi ro xâm lăng tiền tệ nữa, và càng không thể đề nghị xử lý vì chính sự
đề nghị của họ bây giờ trở thành vi phạm pháp luật, thứ pháp luật do chế độ
cộng sản Việt Nam tùy tiện đặt ra và tùy tiện sửa đổi cho hợp với “bạn vàng”.
Người dân có quyền đặt câu hỏi, phải chăng sự tùy tiện
sửa đổi này là dấu hiệu của sự lệ thuộc ngày càng nặng nề của Hà Nội vào Bắc
Kinh, đến mức các lãnh đạo Việt Nam không dám (hoặc không thể) phản đối công
khai nữa mà chỉ có thể đưa ra các quyết định vì quyền lợi của người Trung Quốc?
Làn sóng xâm lăng khởi sự bởi những đồng nhân dân tệ,
vốn đã được cảnh báo từ hơn ba năm trước, trên truyền thông cả “lề trái” lẫn
“lề phải” (Ngày 5/1/2015, báo Thanh Niên có bài: Kiến nghị cho thanh toán trực tiếp
tiền Trung Quốc tại Việt Nam: Rủi ro cho cả nền kinh tế; ngày
9/1/2015, RFA có bài: Cảnh giác Trung Quốc vi phạm chủ
quyền tiền tệ), bây giờ đang dần ứng nghiệm theo kiểu “tằm ăn
dâu”. Lãnh đạo chế độ không thể lập tức hợp thức hóa giao dịch bằng nhân dân tệ
trên cả nước, bởi nguy cơ tạo ra làn sóng phản ứng từ dân chúng còn dữ dội hơn
đợt tổng biểu tình ngày 10/6/2018, nhưng có thể khởi sự từ vùng biên giới.
Cần lưu ý, không phải chỉ đến sự kiện hợp thức hóa
giao dịch bằng nhân dân tệ ở các tỉnh biên giới, người Việt mới dần mất chủ
quyền ở khu vực này. Trước đó, Trung Quốc đã chiếm được toàn bộ thác Bản Giốc.
Hơn sáu năm trước, trả lời phỏng vấn VOA, nhà nghiên
cứu Mai Thái Lĩnh cho biét: Bằng việc chiếm thác Bản Giốc, Trung
Quốc sở hữu luôn một dải đất chạy dài từ cồn Pò Thoong cho đến chân thác, nghĩa
là mở được đường xuống vùng thung lũng sông Quây Sơn ở phía trên thác, một lợi
thế quân sự đáng lưu ý trong tình huống xảy ra chiến tranh.
Theo ông Lĩnh, Trung Quốc dĩ nhiên không từ bỏ cơ hội
và đã xây dựng các công sự, cơ sở hạ tầng ở phần đất cạnh thác Bản Giốc này.
Trong khi các lãnh đạo cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục chọn thái độ im lặng và
cúi đầu trước “bạn vàng”.
…đến hoạt động “nhượng địa” trên khắp
đất nước
Nhờ sự trợ giúp tận tình của các lãnh đạo cộng sản
Việt Nam, Trung Quốc còn triển khai nhân lực ở không ít các khu vực hiểm yếu
trên lãnh thổ Việt Nam. Cuối năm 1974, đầu năm 1975, trong quá trình bức tử
chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, tướng lĩnh chế độ Bắc Việt nhận định rằng Tây
Nguyên là mục tiêu chiến lược bởi vai trò “nóc nhà Đông Dương”, thì đến năm
2009, Trung Quốc đưa được người vào Tây Nguyên mà không mất một viên đạn, dưới
danh nghĩa công nhân của dự án khai thác bauxite.
Trước đó, một “công thần” của chế độ cộng sản là tướng
Võ Nguyên Giáp (cũng chính là người thường bàn về vai trò của Tây Nguyên đối
với ba nước Đông Dương) đã ba lần viết thư đề nghị lãnh đạo
chế độ dừng dự án bauxite, nhưng vẫn không thể lay chuyển được
“đồng chí X” và các đồng sự. Đến nay, dự án bauxite Tây Nguyên hiện nguyên hình
là “quả bom nợ”, đồng thời tạo ra rủi ro môi trường rất lớn cho cả Nam Trung Bộ
và Đông Nam Bộ.
Các dự án có dấu tay “bạn vàng” như nhà máy thép
Formosa ở cảng Vũng Áng, Hà Tĩnh, cụm nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân ở huyện Tuy
Phong, Bình Thuận, nhà máy Bột giấy Phương Nam ở Long An… đều là các chiến
thuật “tằm ăn dâu” để người Trung Quốc từ từ gặm nhấm lãnh thổ Việt Nam, cũng
như tạo ra gánh nặng kinh tế và rủi ro môi trường để làm suy yếu người Việt.
Bên cạnh các nhà máy làm thì ít phá thì nhiều, Trung
Quốc cũng chú ý đầu tư các dự án bất động sản dọc theo duyên hải. Một dự án mờ
ám đã được nhà báo Lê Anh Hùng cảnh báo hai năm trước là dự án khu nghỉ dưỡng Hồ Tràm Strip,
được đầu tư bởi một “công ty ma” có bàn tay Trung Quốc. Ông Hùng lưu ý, một
“công ty ma” khác cũng liên quan đến Trung Nam Hải đã làm dự án khu nghỉ dưỡng
Bãi Chuối ở đèo Hải Vân, một trong những vị trí hiểm yếu và nhạy cảm nhất trên
lãnh thổ Việt Nam.
Nếu chúng ta đánh giá quá trình xâm lăng bằng quyền
lực mềm từ Bắc Kinh dựa trên tư duy quân sự từ Thế Chiến Thứ Hai trở về trước,
thì có vẻ Trung Quốc chưa xâm phạm được nhiều đến Việt Nam. Tuy nhiên, nếu áp
dụng kinh nghiệm của các vùng đất đã bị xâm lược theo cách không chính thức ở
châu Phi, Trung Đông, Đông Âu từ sau Thế Chiến Thứ Hai đến nay, thì thực tế là
lãnh thổ Việt Nam đang bị uy hiếp nghiêm trọng. Với số lượng nhân lực Trung
Quốc vẫn đang tiếp tục triển khai trên các vùng trọng yếu ở lãnh thổ Việt Nam,
cùng với sự phụ thuộc ngày càng nặng nề của nền kinh tế Việt Nam vào Trung
Quốc, thực tế lãnh đạo Bắc Kinh không cần phát động chiến tranh, mà chỉ cần các
chính biến với yếu tố quân sự đóng vai trò thứ yếu, đã có thể tác động đến sự
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Vòng vây mà Trung Quốc thiết lập nhằm thu tóm lãnh thổ
Việt Nam đã và đang hiện hữu trên cả nước và đang ngày càng khép chặt. Sau một
thời gian người Trung Quốc tràn vào lãnh thổ Việt Nam, dưới danh nghĩa “công
nhân” làm ở các nhà máy, dự án có bóng dáng Trung Quốc, hoặc “khách du lịch”
qua các “tour 0 đồng”, nay các lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã bắt đầu hợp thức
hóa việc giao dịch bằng tiền Trung Quốc.
Có vẻ như tất cả những gì đang
diễn ra trên cả nước hiện nay đều phù hợp với quá trình đẩy Việt Nam phụ thuộc
vào Trung Quốc, đến mức gần như không thể thoát ra. Viễn cảnh đất nước bị Bắc
thuộc thêm một lần nữa tưởng chừng rất xa, nhưng hóa ra lại rất gần.