Vũ Thư Hiên |
Phố Nhà Rượu là tên nôm, tên dân dã, của con phố nhỏ nằm ở mạn
Đông Nam Hà Nội xưa. Đi quá con phố ấy đã là làng mạc rồi, đã là nhà tranh vách
đất rồi. Không giống các phố khác có nhà cửa hai bên, phố Nhà Rượu một bên là
nhà ở san sát, bên kia là bức tường cao bao quanh Nhà Máy Rượu.
Được xây dựng từ năm 1898, nhà máy rươu Hà Nội là nhà máy lớn
nhất trong 5 nhà máy do công ty La Fontaine của Pháp xây dựng ở Đông Dương. Tên
Tây của nó là Sergent Larrivée. Đến thời ta nó được đổi tên là phố Nguyễn Công
Trứ. Đường phố ngày nay thường mang tên các vị lãnh tụ đảng, các anh hùng cộng
sản đã hy sinh. Ông Nguyễn Công Trứ được nhớ đến, được đặt tên cho con phố này,
chắc hẳn vì ngoài tài kinh bang tế thế, ông còn là nhà thơ. Có nhà thơ nào mà
không mê rượu cơ chứ, đi kèm với túi thơ bao giờ chả là bầu rượu. Ông Trứ được
đặt tên cho phố này là hợp.
Cái tên Larrivée gợi tò mò. Tôi cũng có ý tìm xem viên đội
này là ai mà tìm không ra. Chắc anh chàng Larrivée chết trận ở đâu đó trong cuộc
chinh phục Đông Dương của Pháp, nhưng không phải ở địa điểm này. Trong lịch sử
Đông Dương thuộc Pháp không có tên Larrivée. Chỉ có viên đại tá hải quân Henri
Rivière bị quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc giết ở Cầu Giấy là được đặt tên ở đúng
chỗ anh ta ngã xuống.
Phố Nhà Rượu còn có một tên khác là Rue du Cimetière (Phố
Nghĩa Địa). Tên này có trước tên Sergent Larrivée vì ở đầu phố có cái nghĩa
trang rất lớn dành cho người Pháp ở Bắc Kỳ, gọi nôm na là Nghĩa Địa Tây. Người
Việt dù có làng Tây[1] cũng không chôn ở đây.
Người trông nom nghĩa trang là một ông Tây già phục phịch,
đi lại khó khăn, thỉnh thoảng lắm mới xách ba-toong la cà ngoài phố. Không ai
biết tên ông, bèn gọi phắt là Ông Tây Nghĩa Địa.
Ông Tây Nghĩa Địa có vợ Việt. Vợ ông lại là em ruột bà ngoại
tôi.
Người trong họ gọi vợ Ông Tây Nghĩa Địa theo tên con gái là
bà Nê. Bà Nê giống hệt bà ngoại tôi, thanh mảnh hơn, cao hơn bà ngoại một chút.
Cả hai bà đều đẹp phúc hậu. Bà ngoại có mùi dầu cù là, bà Nê có mùi nước hoa.
Tôi yêu cả hai bà. Hai bà cũng yêu tôi. Khi nào thật yêu tôi, bà ngoại ôm tôi
chặt rồi hít mùi tóc tôi. Bà Nê hôn tôi lên trán.
Bà ngoại tôi có hai con – bác Ngọc và mẹ tôi. Bà Nê cũng có
hai con - cô Nê (René) và cậu Giăng (Jean). Hai người con lai của bà Nê chẳng
có tí nét Việt Nam nào, Tây đặc, hoàn toàn không biết tiếng Việt. Tây lai ở Hà
Nội có nhiều, nhưng chúng đều ra vẻ Tây thật, không thích dính dáng với người
Việt. Cô Nê và cậu Giăng khác. Cả hai đều rất quý họ hàng đàng mẹ. Hai cô cậu
năng đến chơi nhà tôi. Họ đến, ào vào nhà, hôn qua quýt tôi một cái rồi ríu rít
trò chuyện với cha mẹ tôi.
Sau những năm 1945-1946 tôi không gặp lại cô Nê và cậu Giăng
nữa. Nghe đồn cậu Jean đăng lính rồi chết trong một cuộc đụng độ Pháp-Nhật ở Lạng
Sơn. Cũng nghe đồn thì cô Nê rồi sau lấy được người chồng giàu, chủ ngân hàng
gì đó, cô mua cho mẹ một thửa đất rộng ở Ấn Độ, dựng chùa để bà tôi tu.
Bà Nê và hai người con mất tích từ đó.
Người trong họ kể: khi còn con gái bà Nê có tình ý với một
chàng trai trong làng. Gia đình chàng trai kiên quyết ngăn cấm mối tình ấy vì cụ
ngoại tôi bị tình nghi tham gia phong trào Văn Thân chống chính phủ bảo hộ, từng
bị lính bắt giải về làng. Bà Nê giận đời bỏ ra Hà Nội, làm nghề khâu đầm
(couturière), một nghề thịnh hành thời ấy. Nghề này phát đạt đến nỗi có hẳn một
phố tên là Rue des Brodeurs (phố Thợ Thêu). Sau, không biết mối lái ra sao, bà
gá nghĩa với ông Tây nọ.
Bà ngoại tôi rõ ràng không ưa việc bà Nê lấy Tây. Chẳng cứ
bà, thời ấy người ta coi sự lấy Tây là nhục nhã, những người đàn bà lấy Tây bị
gọi là “me Tây”. Người Pháp lấy vợ Việt cũng bị coi là loại Tây hèn kém, Tây giẻ
rách, Tây mắm tôm, không đủ giàu có và tài cán để có vợ cùng xứ mới đâm đầu lấy
vợ Việt. Tây ở đây là theo cách hiểu của người Việt, cứ da trắng, mũi lõ là Tây
tất. Có một ông Tây người Tiệp ở phố Jacquin ngay đầu đường phố Nhà Rượu làm
nghề lên dây đàn dương cầm lấy vợ Việt, tôi thường chọc ghẹo mấy đứa con lai của
ông đến phát khóc.
Lâu lâu bà ngoại tôi lại dẫn tôi tới thăm bà Nê. Thái độ
không nồng ấm của bà ngoại tôi với em ruột là điều trong họ ai cũng biết. Nhưng
tình chị em còn đấy, bà không thể không thỉnh thoảng ngó em mình một cái. Trong
khi hai bà trò chuyện thì tôi bỏ ra ngoài, lang thang một mình giữa các hàng mộ
chí trong nghĩa trang vắng lặng. Nhìn trước nhìn sau không thấy ai, tôi tháo vội
vài cánh hoa cườm bỏ túi. Những cánh hoa kết bằng hạt cườm nhỏ xíu đủ mọi màu
được luồn bằng dây thép mảnh nhưng dai lắm, ngắt được chúng khỏi vòng hoa rất
khó. Như thế là ăn cắp. Cha mẹ tôi mà biết thì tôi không tránh khỏi mấy roi vào
đít.
Ông rể Tây của tôi tính vốn lành, lại lười nữa. Ông chẳng
thèm để ý chuyện mất cắp hạt cườm. Vòng hoa cườm thay cho hoa tươi trong nghĩa
trang nhiều vô số, hầu như không mộ nào không có. Có vẻ ông cũng chẳng buồn coi
sóc những nấm mồ lạnh lẽo nọ. Người Pháp chết ở đây, chôn ở đây, con cháu về nước
rồi hiếm khi trở lại viếng mộ. Công việc quét dọn lối đi, cắt tỉa dây leo quanh
hàng rào, lau rửa các bia mộ… đều do phu người Việt làm. Cấp trên của ông, tức
Toà Thị Chính, không phiền trách ông có nghĩa là mọi việc ổn thỏa, ông cứ việc
ăn no ngủ kỹ. Thỉnh thoảng ông mới lững thững dạo vài vòng, quát nạt mấy người
phu đôi câu lấy lệ. Những người phu ngừng tay, vờ chăm chú nghe ông quát bằng
thứ tiếng mà họ không hiểu, nhưng đủ khôn để đoán ý ông muốn họ làm gì.
Những hạt cườm trong suốt và sặc sỡ là món quà quý cho các bạn
gái cùng phố. Các cô bé rất thích chúng. Kết chúng lại bằng chỉ luồn qua lỗ, họ
đã có một cái vòng đeo tay, vòng cổ. Họ không thể vào Nghĩa Địa Tây để kiếm hạt
cườm. Muốn vào phải qua cái cổng bao giờ cũng khoá trái. Nhưng tôi không thích
các bạn gái. Chơi với họ một lúc là chán. Ngoài rải gianh, nhảy lò cò, chơi
chuyền… là hết trò.
Tôi có nhiều bạn trai hơn. Chúng tôi nhặt những nút bia, kéo
nhau ra tận phố Huế để đặt chúng lên đường ray chờ cho tàu điện chẹt chúng bẹp
dí thành những đồng xèng, một thứ tiền của trẻ con trong trò đánh đáo. Chúng
tôi còn dùng xèng để mua bán bi đá, bi ve. Chơi bi có nhiều kiểu, cũng là một
trong những cái thú bất tận của trẻ con thời ấy.
Trên bức tường cao đối diện với nhà tôi cứ cách một quãng lại
có một lỗ thải bã rượu ra cho những cái xe bò có phên nứa quây kín bốn cạnh chực
sẵn. Những con bò buồn ngủ đứng đờ đẫn giữa hai cái càng, uể oải quất đuôi xua
ruồi nhặng. Từ những kẽ phên nứa ri rỉ chảy ra nước bã rượu màu nâu. Suốt ngày
không khí cả phố sực mùi chua nồng.
Nhà Máy Rượu có đủ thứ còi – còi vào ca, còi giữa trưa, còi
tan tầm. Mỗi lần nó rúc lên là điếc cả tai. Khi tan tầm, cổng nhà máy mở toang,
ùn ùn nhả ra những người phu mệt mỏi, phờ phạc.
Đêm đến, nghe rõ tiếng tru thảm thiết từ phía Nhà Thương
Chó. Nhà thương này nằm ở phố Lò Đúc, cuối phố Nhà Rượu, bên kia đường. Tôi hay
đi qua đấy, nhưng chẳng nhìn thấy lũ chó bị bệnh. Chắc người ta nhốt chúng
trong những ngôi nhà nhỏ bên trong, giữa những hàng cây sum suê.
Tôi không nhớ cuộc chuyển nhà diễn ra năm nào. Cái sự chuyển
nhà của dân ở thuê phụ thuộc tình hình kinh tế gia đình. Khi làm ăn khấm khá
hơn thì người ta dọn đến chỗ ở tốt hơn, trong một phố sang hơn. Khi rời khỏi
căn nhà chật hẹp ở phố Nhà Chung để dọn đến đây, gia đình tôi ắt phải khá hơn
trước.
Mẹ tôi làm công cho một cửa hàng tơ lụa của người Ấn Độ nằm
giữa phố Paul Bert (phố Tràng Tiền), lớn nhất thành phố. Tôi thường được mẹ cho
đi theo đến cửa hàng Palais de Soie (Cung Tơ Lụa), nơi mẹ làm. Ông chủ tên
Kevarah, người Ấn Độ, mặt không khác người Pháp là mấy, da không đen lắm, thấy
tôi đi theo mẹ bao giờ ông cũng tươi cười xoa đầu tôi, cho tôi ăn kẹo nu-ga.
Tôi rất thích được theo mẹ đến đây vì tôi thích kẹo nu-ga có sữa trộn lạc, mềm
và ngon vô cùng. Ông chủ Palais de Soie chắc cũng nghiện thứ kẹo này như tôi. Lần
nào ông cũng thò tay vào túi lấy ra đúng một thứ kẹo ấy.
Cùng làm với mẹ tôi còn có cô Tỳ và cô Mỳ mà mẹ tôi coi như
hai cô em. Cô Tỳ cao hơn cô Mỳ, mặt trái xoan, dáng thanh mảnh, nghiêm trang.
Cô Mỳ thấp, mặt bầu bĩnh, nhưng tươi cười, yêu tôi hơn cô Tỳ. Giờ nghỉ trưa, cô
dắt tôi đi dạo phố, mua kem que cho tôi mút. Cha tôi bảo hai cô là hai chị em
Thúy Kiều, Thúy Vân. Tôi không biết Thuý Kiều, Thuý Vân là ai, tôi chắc họ phải
là hai cô gái rất đẹp. Người khuân vác những xúc vải nặng, người quét dọn cửa
hàng đều là người ta hoặc người Ấn. Người Pháp không thèm làm công việc ấy, kể
cả người Pháp nghèo. Người của nhà nước bảo hộ giữ giá, không làm những công việc
có thể thuê người bản xứ. Cô Tỳ và cô Mỳ bán hàng, mẹ tôi đứng két và làm việc
kế toán, cả ba đều biết tiếng Pháp đủ để giao thiệp với khách hàng tây đầm.
Khách tây đầm mua vải mua lụa ở đây rồi giao cho các hàng thợ may người Việt. Cả
Hà Nội không có hàng thợ may nào của người Pháp. Mẹ tôi nói ông Kevarah là người
tốt, dân Pondicherry, một tỉnh Ấn Độ thuộc Pháp. Bà nói có nhiều người từ tỉnh
này sang ta làm ăn.
Năm 1954 trở về Hà Nội mẹ tôi mới biết hai cô Tỳ, Mỳ đã di
cư vào Nam. Cũng từ đó không bao giờ tôi còn gặp lại hai cô nữa. Hà Nội khác
trước, vắng vẻ hẳn. Mẹ tôi buồn, bảo có dễ đến nửa Hà Nội đã bỏ đi. Đến nhà những
người quen cũ bà đều thấy cửa đóng im ỉm. Không ai nói cho mẹ tôi biết về số phận
người hai bạn thân thiết cùng sở làm. Ông Kevarah cũng đi, ông bỏ đi Sài Gòn mở
cửa hàng khác hay trở về Ấn Độ, không ai biết. Người ta bỏ đi vì sợ cộng sản. Mẹ
tôi buồn không được gặp lại ông chủ. Bà kể ông Kevarah biết nhưng vờ như không
biết vụ cha tôi vì hoạt động chính trị mà bị bỏ tù. Mỗi khi mẹ tôi xin nghỉ vài
ngày thì không cần mẹ tôi nói lý do, ông bảo: “Công việc không gấp, bà để đấy
làm sau cũng được”. Mẹ tôi đoán ông cũng là dân thuộc địa[2], nên ông thông cảm
và ngấm ngầm ủng hộ cách mạng Việt Nam. Thế nhưng khi quân cách mạng về tiếp quản
thành phố thì ông chạy.
Tôi không biết cha tôi làm ở đâu. Sáng sáng, sau bữa điểm
tâm ông đứng trước gương, chải đầu, xức nước hoa, châm một điếu thuốc lá Camel,
rồi ra khỏi nhà.
Trong tuổi thơ của tôi, ngôi nhà số 27 Bis Phố Nhà Rượu được
ghi lại đậm nét trong trí nhớ.
Nó lớn hơn, sáng sủa hơn hẳn căn nhà hẹp ở phố Nhà Chung, với
một khoảnh vườn tí xíu có mấy khóm hoa mào gà ở trước cửa, có phòng khách kiêm
phòng ăn, và hai phòng ngủ. Đàng sau nhà là bãi đất hoang bát ngát đầy cỏ may
và những bụi cây um tùm. Những bụi cây không tên như thế mọc lung tung ở những
nơi con người không màng đến. Chỉ những nhà thực vật học mới biết tên những cái
cây lăng nhăng ấy, tôi hỏi thì họ cũng chỉ gọi ra được cây này cây kia thuộc họ
gì mà thôi. Đi theo đường mòn qua bãi hoang thể nào cũng bị hoa cỏ may bám đầy
quần, nhặt không xuể. Hai bên đường có rất nhiều bụi cà dại trĩu chịt quả vàng
quả đỏ rất đẹp, nhưng không ai hái. Người lớn nói chúng không ăn được. Đi hết
khoảng đất rất rộng sẽ tới con đường dẫn tới đền Hai Bà, nơi có hai con rùa đá ở
đàng trước. Tôi hay lang thang ra đấy để leo lên cổ con rùa nằm dưới gốc đa cổ
thụ. Trước đền có một cái ao nước trong, có thể nhìn thấy những con cá đuôi cờ
quanh quẩn bên những bụi súng. Hoa súng trắng chỉ thoang thoảng hương khi mới
hái, hái xong là chúng chẳng còn mùi gì nữa.
Thời gian ở phố Nhà Rượu là thời gian sung sướng nhất trong
tuổi thơ của tôi. Cha tôi tha về hằng ngày đủ thứ: nho, táo, lê… , cả bơ, phô
mai. Chúng tôi chưa bao giờ được ăn những của lạ này. Ông làm công cho hãng
Michaud, một hãng chuyên nhập cảng thực phẩm Pháp. Khi Pháp rút khỏi Việt Nam,
cửa hàng Michaud ở phố Tông Đản trở thành cửa hàng cung cấp đặc biệt cho các
quan chức cấp cao (mới có câu: “Tông Đản là chợ vua quan, Nhà Thờ là chợ trung
gian nịnh thần”). Cả khi ấy, cả sau này tôi cũng không biết cha tôi hồi ấy làm
công việc gì, kế toán hay người bán hàng. Cha tôi là người kiệm lời, tính ông
thế.
Mẹ tôi bao giờ cũng là người dậy sớm nhất nhà. Tôi nằm ườn
trên giường nghe tiếng mẹ lục cục xoong nồi trong bếp, tiếng người Ấn Độ giao sữa
bấm chuông. Đó là một ông già đen nhẻm, gày đét và cao nhỏng, đầu chít khăn quấn
thừng màu lục, sáng sáng đưa sữa đựng trongmột cái ấm sắt tây to bằng cái bình
tưới cây, từ tốn và thận trọng rót dòng sữa trắng phau vào xoong cho mẹ tôi hứng.
Ông già Ấn Độ có một đàn bò đông đúc. Ông là chủ đàn bò hay
chỉ là người chăn đắt, tôi không rõ. Cùng chăn bò với ông còn có một người trẻ
hơn ông, thấp hơn ông, cũng quấn khăn màu lục, cũng quần cháo lòng ống thấp ống
cao, y hệt ông. Họ lặng lẽ vung roi quật veo véo vào mông những con bò chậm
chân. Đàn bò của hai người Ấn Độ có dễ tới bốn chục con. Chúng không phải một
loại, mà to nhỏ đủ màu: đen, vàng, vá. Chúng đi rầm rập trên phố, mùi hôi sực nức
phả vào mọi nhà, xe ô tô phải dừng lại nhường đường cho chúng. Chỗ ở của đàn bò
là một bãi rộng ở đầu làng Thọ Lão cuối phố Lò Đúc. Tôi đã đi qua những chuồng
bò ở đấy. Lũ bò sữa chen chúc nhau trong những cái chuồng có mái nứa che sơ
sài, rằng chật hẹp, nhìn thông thống qua những thân cây nhỏ gá vào bốn cột. Không
hiểu người ta vắt sữa thế nào từ những con bò bẩn thỉu ấy.
Phố Nhà Rượu không phải phố nhà giàu. Những ngôi nhà với cửa
ra vào phơi ra mặt đường, bậc tam cấp thấp tè, đặc trưng cho phố người nghèo,
người trung lưu bậc thấp, hoặc công chức hay tư chức hạng xoàng. Ở các phố nhà
giàu nhà nào cũng có mảnh vườn nhỏ xíu trước cửa, có hàng rào sắt, có cửa sắt mở
ra đường, trên đó dây tầm xuân, hoa phong lữ, hoa ti gôn nở tưng bừng.
Tôi được cắp sách đến trường lần đầu. Trường của tôi ở xa
nhà. Tôi phải đi hết phố Jaquin, qua phố Harmand Rousseau có nhà bác cả tôi mới
tới ngôi trường có sân rộng thênh thang ở phố Hàm Long. Nó tên là trường
Triton, không biết có phải là Trí Tôn hay Tri Tôn tiếng ta được đặt thành tiếng
Tây hay không tôi không rõ.
Tôi nhớ tiếng trống trường, nhớ ông loong-toong (planton) đã
chùi nước mắt cho tôi rồi dẫn tôi vào tận lớp để giao cho một ông giáo mặc áo
dài trắng, mặt bì bì, như lúc nào cũng bực mình với lũ học trò hiếu động. Tôi
nhớ bài học tiếng Pháp đầu tiên có câu “Nos ancêtres sont les Gaulois” (Tổ tiên
của ta là người Gô-loa) tôi nhai nhải đọc và bị cha tôi cho một cái cốc đau điếng
vào đầu, còn mẹ tôi thì xoa chỗ đau cho tôi: “Có phải lỗi của nó đâu”. Tôi nhớ
người bạn thân nhất của mình tên Chu Ngọc Huy, người đã dùng nắm đấm bé nhỏ lăn
xả vào bảo vệ tôi khi tôi bị các bạn lớn hơn bắt nạt.Về sau tôi đã cố tìm lại bạn,
nhưng không sao tìm lại được. Viết lại kỷ niệm này tôi vẫn hy vọng biết đâu rồi
đây có người tình cờ đọc sẽ cho tôi biết bạn Huy của tôi còn sống không và nay ở
đâu.
Cũng ở phố Nhà Rượu tôi được biết nhiều nhà cách mạng nổi tiếng
sau này: Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt (Hạ Bá Cang), Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn
Duy Trinh, Bùi Lâm… Họ thường đến họp ở nhà tôi. Tôi. Chẳng ai để ý đến tôi nằm
trên cái phản nhỏ ở phòng khách. Tôi nhớ nhất dáng đứng của ông Hoàng Quốc Việt.
Người thấp, ông tựa lưng vào lò sưởi, tay xoay xoay cái mũ phớt, lẳng lặng nghe
các bạn nói, rồi sau hết mới cao giọng phản bác. Ông Nguyễn Lương Bằng thì ngồi
im trên ghế, suốt cuộc họp không nói câu nào. Ông Bùi Lâm không nói thì thôi,
đã nói thì hùng hồn, pha rất nhiều tiếng Pháp.
Bà ngoại tôi gặp họ vài lần, nhận xét: “Không hiểu sao bố mẹ
cháu lại chơi với hai cái anh này (Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt). Tướng xấu lắm.
Không phải người tốt”. Hoá ra bà tôi đúng. Hai người này khi đã leo lên những địa
vị cao không bao giờ còn lai vãng nhà tôi nữa. Cha mẹ tôi không giận họ. Hai
ông bà có cái nhìn rạch ròi trong quan hệ - đồng chí và bạn. Cùng đi với ông bà
trên đường cách mạng, họ là đồng chí, nhưng không hiển nhiên là bạn. Vì thế mà
ông Nguyễn Văn Tiến, biệt hiệu Tiến Cố, một thời là đảng viên đảng cộng sản
Pháp, rồi chuyển sang đảng viên đảng cộng sản Việt Nam, rồi bị chính quyền cộng
sản bỏ tù vì bỏ đảng theo Thiên Chúa giáo, vì có quan hệ mật thiết với các chủ
chăn mà chính quyền nghi ngờ nhưng không bỏ tù được, mãi mãi là bạn của gia
đình tôi. Về những người như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt có nhiều chuyện để kể
nếu viết riêng từng người, trong trường hợp có thời giờ.
Thời giờ thì sẵn, nhưng hứng thú thì không.
Hàng xóm nhà tôi là một nhà Pháp đặc, cả vợ cả chồng. Gia
đình Pháp này là duy nhất trong cả phố. Sáng sáng họ đi bộ tới sở, hoạ hoằn mới
gọi xe tay. Xem ra họ cũng nghèo, gia cảnh chẳng hơn người bản xứ cùng phố. Ra
cửa mà gặp cha tôi hay mẹ tôi là hai vợ chồng nọ liền túm lấy trò chuyện ríu
rít. Họ vui sướng ra mặt khi có hàng xóm biết tiếng Pháp.
Người Pháp nghèo thường là người đảo Coorse, ta gọi là Tây Cọoc.
Tây Cọoc làm công việc chân tay trong các xưởng máy, cửa hàng của người Pháp gốc,
hoặc làm lao công trong các công sở, may mắn lắm thì được làm cảnh sát hoặc cai
tù. Nghèo thì nghèo, Tây Cọoc vênh váo còn hơn Tây thật, không bao giờ làm thuê
cho người Việt. Hai vợ chồng nhà này là người vùng Bretagne, không biết làm nghề
gì, lại nghèo, cũng là sự lạ, cha mẹ tôi nhận xét.
Jeanette - đứa con gái nhà Tây rất xinh. Nó có mái tóc vàng
rơm, mắt như hai hòn bi ve, hiếu động, nghịch như quỷ sứ. Vợ chồng người Pháp
không cấm con gái chơi với tôi. Vào thời gian ấy tôi chẳng có đứa nào cùng tuổi
ở gần nhà để làm bạn. Tuy nó Tây, tôi ta, nhưng hai đứa rất hiểu nhau nói gì.
Tôi có chút tiếng Tây mẹ dạy, Jeanette có chút tiếng ta tôi dạy, thế là đủ cho
sự giao tiếp giữa hai đứa. Chúng tôi hết chơi rải gianh thì ô ăn quan, chán nhảy
lò cò thì oẳn tù tì ra cái gì ra cái này. Mấy trò này chẳng cần ai dạy, thế mà
đứa trẻ nào cũng biết. Jeanette có một con ngựa gỗ sặc sỡ, khi nào yêu tôi lắm
nó mới cho tôi cưỡi một lúc. Tôi nắm chặt hai cái tai gỗ của con ngựa bắt nó
đung đưa thật lực, cho đến khi bổ nhào. Nó đứng bên xem tôi phi, vỗ tay đôm đốp,
thấy tôi ngã thì ré lên cười ngặt nghẽo.
Tình bạn của tôi và Janette kéo dài không lâu.
Hai năm sau, gia đình Pháp dọn đi.
Khi đồ đạc đã chất lên hai cái xe bò kéo và hai vợ chồng Tây
đã yên vị trên hai xe tay thì Jeanette đã ngồi bên mẹ bỗng nhảy bổ xuống, tất tả
chạy lại ôm lấy tôi, ôm chặt, nước mắt đầm đìa. Rồi nó bất thình lình nó khóc
to, nó gào. Tiếng khóc Tây của nó không khác gì tiếng khóc ta. Tôi cũng ôm
Jeanette không rời, cũng nấc lên, nước mắt ròng ròng. Nhưng tôi không dám khóc
thành tiếng vì sợ mẹ tôi thấy. Mẹ tôi rất nghiêm khắc, bà cấm tôi không được
khóc bất kể vì cớ gì.
Nghe bố mẹ ồi ồi giục lên xe, Jeanette vội vã hôn tôi tới tấp
lên mặt tôi, rồi môi tôi. Miệng nó mềm và thơm, pha vị mặn của nước mắt.
Đó là cái hôn đầu đời mà tình bạn cho tôi.
Không bao giờ tôi còn gặp lại Jeanette nữa.
Cũng chẳng bao giờ tôi quên được cô bạn gái bé nhỏ của mình.
[1] Làng Tây là cách gọi người Việt có quốc tịch Pháp.
[2] Khi người Anh hoàn toàn chiếm được Ấn Độ vào cuối những
năm 1850, các vùng Pondicherry, Mahe, Yanam, Karaikal và Chandernagor vẫn là một
phần Ấn Độ thuộc Pháp.