Thư trả lời người bạn
đồng nghiệp «trách móc» dân oan
Lê Hữu Khóa
(Tác giả là giáo sư, tiến sĩ nhân loại học,
xã hội học ở Pháp; Giám đốc Chương trình đào tạo Master châu Á, phụ trách
chương trình hợp tác với Việt Nam; chuyên gia tại UNESCO… )
(Tạm) kết:
Có lần, tôi đến chào bạn sau chuyến công vụ
đại học, trong đó có chuyện diễn giãi về dân
oan, hôm đó bạn “không tha” cho
tôi, bạn trách tôi: “Việt Kiều ở bên
phương tây mọi thứ có đầy đủ sao cứ “lấy chuyện đất nước” ra phân tích hoài
vậy? Tôi ở đây hằng ngày mà đâu mất thì giờ để làm chuyện này!”. Hôm đó,
tôi nghe lời dạy của các tổ sự về vô ngôn,
nên tôi chỉ cười mà không trả lời bạn, bây giờ tôi xin trả lời nhé; tôi trả lời
bằng phương trình Tin yêu-Hướng
thiện-Nhận thức-Tâm nguyện được cấu trúc gẫy gọn qua lời Kiều của cụ Nguyễn
Du:
Nhớ lời nguyện ước ba sinh
Bạn hãy tìm ngay trong chiều sâu lương tri
mình để mời các ẩn số lương tâm sau
đây lên tiếp sức với bạn:
● Tin yêu vừa là niềm tin vào cuộc sống, vào tình yêu, vào tình thương làm
nên nỗi niềm sâu lắng, trầm kín trong nội tâm bạn, nó là người-bạn-sâu-bên-trong, nó thân
thuộc trong thân quen trong tâm
khảm của bạn, vì tin yêu này quá thân thương với bạn, nên bạn luôn tin
vào nó.
● Hướng thiện được chế tác từ tin yêu
làm nên quyền năng ngay trong không gian tâm linh của riêng bạn, nó yêu cầu bạn
phải trả lời ba câu hỏi: Tôi là ai? Ý
nghĩa cuộc sống của tôi là gì? Tôi muốn làm gì và có thể làm gì để đưa cuộc đời
theo hướng thiện?
● Nhận thức được chế tác từ hướng thiện
của tin yêu này, làm nên từ ý thức về cuộc đời của bạn, nơi mà cuộc
đời là không gian và thời gian luôn bị các biến cố xé tan nát, chính những sự
cố này làm nên kinh nghiệm cho tâm thức
phải luôn ở dạng tỉnh thức để nắm
chính lương tri của mình ngay trong hiện tại, để bạn sáng suốt mà chuẩn bị cho
tương lai.
● Tâm nguyện ngụ ngay trong tâm thức có
chiều sâu của nội tâm ở dạng thức tỉnh nhất; sẽ tạo điều kiện để bạn khởi duyên, trợ lực bạn cho đời sống xã
hội, trợ duyên bạn trong các quan hệ xã hội, trợ tâm bạn trong sinh hoạt xã
hội, tha nhân và bạn sẽ gần nhau hơn trong các giá trị của tin yêu bằng tâm
nguyện.
Gần đây, bạn có gởi tôi một lá thư cũng làm tôi “điếng hồn”, trong đó thay vì trách tôi
thì bạn viết câu “ăn cơm nhà, vác ngà voi”! Thưa bạn,
câu này chỉ thực tiễn cho kẻ ích kỷ, chỉ biết kéo chăn lại phía mình để trùm
phủ và che lấp các tư lợi của riêng mình, mặc kẻ khác (Ai chết mặc ai! Bây chết mặc bây!). Đây là dịp tôi trả lời bạn,
chỉ bằng một câu của Phạm Thiên Thư, mà Phạm Duy đã phổ nhạc: «Muôn loài như sương rơi. Xin làm hoa trắng
đỡ…”
Bạn hãy tới cõi lương tri của trí thức bằng chính tự do của bạn, bằng chính tâm hồn trong,
linh hồn sáng của bạn, hãy đi trên con đường: nhân tính làm nên nhân tình; có
nhân từ biết chở che cho nhân nghĩa ; từ đó mọi tuyên truyền
ngu dân, mọi khẩu lịnh mỵ dân tự nhiên thành bọt bèo, rồi tự biến mất trong cõi
sinh, cõi sống của bạn. Sương thì yếu
yểu, rơi là tan, mà hoa cũng vậy, rất
mong manh, vậy mà hoa biết hứng đỡ sương, lấy chính thân mong manh của mình
để hứng đỡ cái chóng chày, cái đang phôi pha giữa sự sống. Đây là một bài học
quý về lương tri, nếu bạn đang yếu lả, đang mong manh, bạn vẫn có thể giúp, có
thể cứu những ai yếu hơn mình, mong manh hơn mình. Lương tri thật cụ thể bạn à,
vì nó không bỏ quên ai, dù kẻ cứu cũng đầy các khó khăn, ngập các thử thách,
tràn các thăng trầm, nhưng phải giúp-cứu-nâng-đỡ
kẻ yếu «trước đã», còn mọi chuyện
khác thì để «tính sau»!
Câu chuyện lương tri trí thức của chúng ta có
thể ghé qua các công trình nghiên cứu của triết gia Jerphagnon khi ông nghiên
cứu toàn bộ hệ thống tư tưởng Âu châu để hiểu tại sao các minh sư triết học
ngày càng đi sâu vào minh triết để hiểu các giá trị tâm linh. Nơi đây, minh
triết là minh lộ để con người tới được các chân trời tâm linh, tại các chân
trời này con người sẽ thấy các kinh nghiệm của nhân phẩm, luôn song hành cùng các trải nghiệm của nhân văn. Tại tụ điểm của lương tri này,
con người sẽ nhận ra rồi nhận rõ các giá trị của cuộc sống, để hiểu tại sao lại
có chuyện trễ, tại sao lại có chuyện chậm? Platon khi được Jerphagnon soi rọi
qua cấu trúc triết học của chính Platon, luôn đi tìm để phân tích quan hệ giữa
con người, linh hồn và thượng đế; nơi mà mỗi con người sống trong cuộc đời như
đi trên một con đường, và trên con đường đó con người gặp-nhận-hiểu-thấu nhân vị của linh hồn, nhân sinh qua thượng đế,
mỗi lần gặp-nhận-hiểu-thấu như vậy
con người luôn tự đặt cho mình câu hỏi tại sao ta gặp-nhận-hiểu-thấu trễ như vậy, chậm như vậy?
Augustin là trường hợp mà Jerphagnon ở lại
thật lâu trong nghiên cứu của mình, trước hết St Augustin có tất cả các thành công trong xã hội, bằng tinh hoa của
học thuật dựa trên tinh anh có trong sự thông minh của ông; nhưng năm 33 tuổi Augustin đã bỏ tất cả để đi tìm thượng
đế, vì nếu nhận ra thượng đế thì sẽ hiểu linh hồn là gì? Cũng với sự thông minh
xuất chúng của mình, Augustin không rơi vào chuyện mê tín, dị đoan, hoang
tưởng, mà ông tổ chức một cuộc đối thoại với thượng đế với tấm lòng kính cẩn
tuyệt đối. Nhưng khi ta đọc kỹ tác phẩm Xưng
tội (Confessions) của ông, người ta nhận ra ông mượn chuyện xưng tội là để
vinh danh nhân phẩm của nhân loại. Như vậy, chuyện ông tổ chức một cuộc đối
thoại với thượng đế có thể chỉ là một cái cớ chăng? Cớ để ông biến đối thoại thành độc thoại, ông độc
thoại với thượng đế để đốí thoại với đời, với người, với chính thân phận của
mình. Một cuộc độc thoại luôn muốn tìm con đường tâm linh để đi lên, lên cao,
cao mãi để được ngang tầm với thượng đế. Như vậy sự thông minh làm nên nhân tri
có thể hiểu được và thấu được sự thông minh của thượng đế; cho nên các giá trị
của lương tri, tự chúng là những con đường cao tốc, cho phép chúng ta đi nhanh
để gặp các giá trị thiêng liêng.
Pascal
là trường hợp mà Jerphagnon thấy được cái ý thức của con người luôn khiêm tốn
để tỉnh táo, luôn khiêm cẩn để sáng suốt, để nhận ra tâm trạng trễ, tâm cảnh chậm khi con người đứng trước các chân lý
của khoa học, các sự thật của nhân sinh, các lẽ phải của đạo đức. Pascal luôn
tìm định nghĩa để giữ định đề, giữ định đề để không lạc đề khi phân tích và
giải thích mọi giá trị, từ toán học tới triết học, từ ngôn ngữ tới nhân sinh.
Và khi vào để phân tích và giải thích các giá trị tâm linh, con người sẽ có định hướng qua định nghĩa của ngữ vựng rồi từ đó mà đi tìm ngữ pháp rồi ngữ văn cho các chiều hướng của tâm linh.
Câu chuyện tri thức của chúng ta cũng là câu
chuyện của bác Trần Dần, bị bạo quyền độc tài đầy đọa nhiều năm sau oan án Nhân
văn giai phẩm1956-1960; bị tà quyền văn nô hãm hại liên tục cho tới thế kỷ mới,
năm 2000; bị ma quyền bút nô trù dập cho tới ngày qua đời. Nên thi ca của bác
Trần Dần là sự sáng đi tối về của các
giá trị nhân tâm sắc nhọn, nhận chướng kiếp và nhận luôn tử kiếp. Khi thế kỷ mới
tới, bác đặt câu hỏi: «Ai tăng cửa sinh?
ai rình cửa tử?», vì bạo quyền, tà quyền, ma quyền vẫn quanh quẩn bên nhau,
quyện lấy nhau để thành âm binh, trùm phủ bóng tối của chúng lên số phận của
Việt tộc, chúng rình rập để đe dọa sự sống. Mặc cho âm binh rình rập, nội dung
tâm linh có trong thi ca, vì thi ca là ngã tư của bốn nhân tố:
● tự do đưa nhân tri gặp nhân tính,
● tự chủ dắt nhân lý gặp nhân phẩm,
● tự tin dìu nhân tâm gặp nhân từ,
● tự trọng dẫn nhân cách gặp nhân bản.
Khả
năng của hệ tự (tự do, tự chủ, tự tin, tự
trọng) khi nhập nội vào tiềm năng của hệ
nhân (nhân tri, nhân tính, nhân lý, nhân phẩm, nhân tâm, nhân từ,
nhân cách, nhân bản) sẽ làm nên
hùng lực tâm linh, để phân tích sâu xa cõi
sinh, cõi tử. Từ đây, cá nhân sẽ
thấy mình có cá tính để trở thành cá biệt, để tách xa âm binh; từ đó lấy
số phận của chính mình để tra, suy, xét,
đoán nhân sinh, để trả lời cho bạo quyền, tà quyền, ma quyền là mọi sự sống
đều thiêng liêng.
Bạn thân mến,
Câu chuyện lương tri trí thức của chúng ta
cũng là câu chuyện hiểu đời để được đời
hiểu của Bùi Giáng; thi sĩ thân thương này có để lại cho đời một giòng thơ:
Em chợt thấy yêu đời vô cùng tận
Vì đời là rất mực thiêng liêng
Em chợt thấy không buồn đau oán hận
Vì thiêng liêng không chia biệt cõi
miền.
Bùi Giáng lội ngược dòng để chống vô cảm, bơi trái chiều để chận hững hờ,
lướt trên mọi lãnh đạm chung quanh để được sống trọn, sống sâu, nhờ vậy thi sĩ
mới đồng cảm rất tự nhiên với mọi tâm phận, luôn chia sẽ với mọi tâm nạn, biến cái bao la của cõi người
thành sát kề, khích cận với chúng ta. Nên mang ơn Bùi Giáng khi thi sĩ chỉ cho
ta đường đi nẻo về của một loại nhân dạng có lương tri: Em chợt thấy yêu đời vô cùng tận. Thấy thượng đế, thánh thần, tôn
giáo, tín ngưỡng là thiêng liêng thì
là chuyện thường, và đây chưa chắc là chuyện nhân tri, còn chuyện người biết thương người, nơi mà tâm hồn
làm nên linh hồn để người thương người
hơn. Còn riêng Bùi Giáng thì ông khẳng định: vì đời là rất mực thiêng liêng. Cuộc đời thiêng liêng vì con người
linh thiêng, trong đó kiếp người từ số phận tới duyên phận đều thiêng liêng,
trong đó mọi nỗi khổ niềm đau của nhân sinh đều linh thiêng; và sức mạnh của
lương tri là kết được cái đời thiêng
liêng vào cái người linh thiêng,
để làm nên cõi thiêng, mà cõi này là
thuộc về người chớ không phải thuộc về thượng đế, về trời cao đất dày nào cả! Biết vượt thoát thăng trầm rồi vượt thắng
trầm luân, Bùi Giáng còn trao cho mọi người cách chế tác linh dược này, cách
làm ra loại thuốc thần diệu này: vì
thiêng liêng không chia biệt cõi miền. Sống mà biết vượt qua dị biệt, để
tránh rơi vào sự phân biệt giữa người và người, rồi từ khinh thường tới khinh
miệt tha nhân, thì như tự chế rào cản cấm nhân
tri mình không được gặp nhân đạo
của người khác, thì như cấm nhân vị
mình không được gặp nhân tri của mọi
người chung quanh. Bùi Giáng để lại cho chúng ta một di chúc tâm linh vô cùng
quý, vì nó vừa thật hay, vừa thật hiếm: Đã
mở cõi thì đừng có ngăn miền!
(Tiền)
kết
Trong lương tri giáo dục, khi thế hệ đi trước
có trách nhiệm phải trao truyền ít nhất ba
giá trị giáo dục cốt lỏi cho các thế hệ đi sau là sự trao truyền sự thật của lịch sử, mà sự thật làm xuất
hiện chân lý với sử liệu, sử chứng,
không ai chối cãi được, song hành cùng các tang chứng, làm nên chứng tích luôn
có mặt trong kỷ niệm, trong ký ức, tạo ra chất sống cho sử học. Chính sự thật làm nên chân lý giúp nhân sinh thấy ra lẽ
phải. Chính lẽ phải giúp ta nhận
diện ra các giá trị của đạo đức cùng
lúc trên hai nhân lộ, con đường đầu tiên giúp nhân sinh nhận ra đạo lý của các chuyện hay, đẹp, tốt, lành có mặt trong nhân
đạo. Con đường tiếp theo là khi có đạo lý rồi thì nhân sinh sẽ tìm ra luân lý khám phá ra bổn phận với xã hội,
trách nhiệm với đồng loại. Từ đây, ranh giới giữa đạo lý và luân lý sẽ bị
xóa dần đi, để tạo nên sự hòa hợp mới, làm nên các giá trị của lương tri.Hãy
lập nên một phương trình mới cho nhân tâm
biết bảo vệ nhân phẩm:
(sự
thật+chân lý = lẽ phải) + (đạo lý+luân lý = đạo đức) = các giá trị tâm linh.
Và khi phương trình này hình thành thì ta
được trao nhận một định nghĩa mới về: tự
do, một định nghĩa đẹp vì đây là cùng
có tự do với tha nhân, với đồng bào, với đồng loại, để cùng hưởng chung với mọi người, mọi loài. Ngược hẳn với loại định
nghĩa thấp hèn về tự do qua cái ích kỷ chỉ cho một người, một phái, một đảng có
trong não trạng của bạo quyền lãnh đạo, đã thành tà quyền hãm hại dân tộc, rồi
sẽ thành ma quyền buôn dân, bán nước.
Sự vận hành toàn bộ của các giá trị của lương tri đi từ cái tôi tới tha nhân, tâm linh là trao không để cùng hưởng
chung, mà không hề đòi trả ân, trả oán, từ đây chúng ta có được một định
nghĩa về các giá trị tâm linh, qua các chỉ báo rành mạch trong sinh hoạt xã
hội, trong đời sống xã hội, trong quan hệ xã hội, vì tâm linh không thể tự định
nghĩa, mà phải dựa trên sự phối hợp giữa: luân
lý, đạo lý, đạo đức luôn đi đôi kiến
thức, tri thức, ý thức, nhận thức; và công
bằng, công lý có từ công tâm, công
đức luôn chung lứa với lương tâm,
lương thiện, lương tri.
Đó chính là chuyện bạn « phê phán » tôi chỉ đi nghiên cứu : « các đồ quốc cấm : dân oan, trẻ
bụi đời, công bằng, tự do, nhân quyền, dân chủ, đa nguyên… », tôi cũng
xin trả lời luôn cho bạn « yên
lòng », mà để tôi cũng « mát
dạ » (mà « định hồn »
lại), tôi xin trả lời bằng kinh
nghiệm của Mục sư L. King và thiền sư Thích Nhất hạnh ; chỉ vì tôi chỉ
nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã về chuyện « con người » thôi bạn ạ ! Mục sư L.King (đứa con
tin yêu của lòng tin bất bạo động để chống kỳ thị) phân tích trong thời buổi
hiện đại của khoa học, cái người
(humain) trong cái thánh (sainteté)
phải có mặt để bảo vệ các giá trị tâm linh, giúp con người luôn cẩn trọng ngay
trên chính mạng sống của mình, khi ông giải thích rằng con người dùng khoa học
để chế ra các hỏa tiễn được điều khiển tự động, nhưng chính con người thi đang lầm đường lạc lối trong mê lộ của sự
giết chóc lẫn nhau, thì các hỏa tiễn điều khiển tự động này là sự tự sát của
con người, chớ không phải là một tiến bộ văn minh gì cả! Khi đấu tranh chống
chiến tranh vì hòa bình, vì muốn bảo vệ con người và sự sống, trong lần chuẩn
bị cho một cuộc biểu tình ngoài đướng phố tại Mỹ, mục sư L.King có hỏi thiền sư
Thích Nhất hạnh là nên chọn khẩu hiệu nào để làm biểu tưởng hòa bình cho cuộc
xuống đường này? Thiền sư Thích Nhất Hạnh khuyên mục sư L.King nên chọn một ca
từ của Phạm Duy, nói lên ý lực của
con người tự chối diệt con người: «Tôi từ
chối giết người! Vì giết hết người rồi tôi sẽ sống với ai?».
Ta
cũng đừng quên Bergson, khi triết gia này phân tích ra hai loại thông minh có
mặt trong đời sống của tri thức:
● Loại thứ nhất là thông minh tức khắc đó là sự thông hiểu
tính lập đi lập lại của các hiện tượng trong không gian và thời gian để hiểu
cách vận hành của chúng, rồi từ đó đặt cứu cánh hợp lý và phương tiện hợp thời
để đạt kết quả.
● Loại thứ hai: thông minh
xét nghiệm biết xem xét tính lập đi
lập lại của các hiện tượng trong không gian và thời gian để khảo nghiệm thực
chất của các hiện tượng này.
Và khi lương tri xuất hiện trước hai loại thông minh này, nó sẽ
vận dụng nhân sinh quan của nhân tâm,
phối hợp cùng thế giới quan của nhân từ,
để chế tác ra một vũ trụ quan của nhân lý,
trong đó kẻ tự cho mình là thông minh phải lấy nhân tính cao nhất của mình để cùng tha nhân bảo vệ nhân phẩm, nâng cao nhân vị cho nhân sinh.
Trên
thượng nguồn, thông minh để quyết định và thông thái vì cẩn trọng khi nhận ra
sự lập đi lập lại của các hiện tượng trong không gian và thời gian, cả hai sẽ
hiểu nguyên nhân của các sự kiện,
cũng như quy luật của các sự cố, để
tránh sai lầm trong hành động. Còn tâm linh tìm hiểu chiều sâu của sự kiện bằng
nhân tri để cảm nhận sự cố bằng sự
rung cảm của nhân tâm.
Dưới hạ nguồn, thông minh biết nhận ra nguyên
nhân của sự thất bại, còn thông thái thì tổng hợp các nguyên nhân của sự thất bại để tránh thảm bại, rồi đi tìm con đường đi khác để tới thành công, mà không
kinh qua quá khích và cực đoan. Còn lương tri thì lùi ra để đứng xa trong tỉnh
táo, mà phân tích thất bại, để sau đó lương tâm sẽ trở lại đứng gần, sát, cận
kề sự thất bại để tìm ra sự cảm thông
với kẻ thất bại. Từ đó tìm cách đưa ra một ánh sáng mới, để chỉ cách thoát nạn
cho kẻ thất bại, được ra khỏi đường hầm của sự bại trận, để tìm con một con
đường khác, bại ít thắng nhiều, vì mang các sác xuất thành công rõ nét. Chuyện
lương tri trí thức không dùng các con tính số học mang tính toán của toán học,
mà bằng sự cảm nhận đa chiều về nhân thế, qua sự đa dạng của nhân gian.
(Tri) kết
Có lần bạn biết tôi vừa cho xuất bản hai đầu
sách Oan luận và Bụi luận[1]
về dân oan và trẻ bụi đời, không nhìn tôi mà bạn cúi đầu lầm bầm khi nói: “Tiếc quá, người học cao như anh mà cứ lần
mò vào các chuyện dân oan mất đất, trẻ
bụi đời lêu lỏng trên vỉa hè”. Bạn
nhớ không? Hôm đó tôi không cúi đầu như bạn mà tôi ngẩng đầu cười vui, nhưng
tôi không trả lời; hôm nay tôi xin trả lời nhé bằng câu chuyện vừa rất thường mà cũng vừa rất lạ:
«có lần lang thang trên các vỉa hè chúng quanh chợ Bến Thành, thong dong
trong thư thái, nhưng mắt chăm chú nhìn cuộc sống, tai lắng nghe nhịp đời trên
các nẻo đường, (bạn hãy thử làm như tôi dù chỉ một lần), bạn có thể gặp cách
đối xử này giữa người với người. Hôm đó, tôi đi ngang một phụ nữ bán hàng rong
trên vỉa hè, bỗng thoắt thấy chị ta mời một người ăn mày đang đói gục bên
đường: “Vào đây ăn chén bún đã!”, kẻ
ăn xin như được cứu trong cơn đói rã, trả lời gọn với gương mặt vui: “Dạ! Con cám ơn”. Câu chuyện chưa
hết ! Bà bạn hàng bên cạnh người phụ nữ bán bún đâm thọc: “Bộ cho ăn chùa hả! Sao ngu vậy!”, kết
thúc câu chuyện là người phụ nữ bán bún mà biết “cho ăn chùa” trả lời với bà bạn hàng của mình thật nhỏ nhẹ, thật
gẩy gọn là: “Thấy thương quá!”.
Chỉ một câu thật ngắn này thôi :“Thấy thương quá!”, có đầy đủ lương tri
thức trong đó, dù chị bán hàng không là trí thức, một câu vừa đầy đủ nhân phẩm, vừa trọn vẹn nhân tâm, nên tự nó đã là một lương tri
vững vàng, vì nó đại diện cho nhân tính
của mọi nhân tính! Mà không cần thần thánh giáo dục mình, không cần một mê tín
nào xúi dục mình. Lương tri cao hơn bất cứ các giá trị tài chính nào đang có
mặt trên cuộc đời này, vì nó bất chấp chuyện định giá! Vì nó bất cần chuyện trả
giá! Vì nó bất tuân chuyện đấu giá! Nên nó thấy chuyện “cho ăn chùa” (ăn mà khỏi cần trả tiền) là chuyện vô cùng đẹp !
Và là chuyện rất thông minh giữa-người-với-người !
Trong đó quan hệ với nhau bằng nhân từ
là vô giá! Mặc dù đồng loại ích kỷ chung quanh thì kết luận là: “Sao ngu vậy!”.Vì “thấy thương quá!” nên rất hãnh diện nhận bảng hiệu mới: “Sao ngu vậy!” (cũng như tôi đã rất vui
mà nhận nhản hiệu : “Đàn ông
sao « mít ướt » quá
vậy !”). Vì nếu ngu vì nhân đạo, dốt vì nhân nghĩa, dại vì nhân tính,
khờ vì nhân từ, thì tôi xin nhận nhân
vị này, xin đón nó với niềm vui của kẻ, không “bị” gọi, mà “được” gọi là : ngu!
Bạn ơi! Nếu bạn tặng cho người, trao cho đời
một cái gì đó vì bạn : “thấy thương
quá!”, mà đồng loại trách rồi xếp
bạn vào (nhất) loại: “cho ăn chùa”
và “sao ngu vậy!” Bạn hãy cứ vui
trong lòng, nhớ “hoàn hồn”, rồi “cười trong bụng” là bạn vừa nhận được
một quà thưởng của tâm linh vô giá, tên gọi của nó là: “Thấy thương quá!”. Bạn à, nhờ kể được cho bạn nghe câu chuyện “Thấy thương quá!” này mà tôi đã hết:“hoảng hồn”, “loạn hồn”, “điếng hồn”, “mất hồn”, “hết hồn”, “kinh
hồn”… vì lá thư của bạn, tôi đã“hoàn
hồn” rồi bạn ạ. Thú thật với bạn là hai ngày qua, tôi thật sự là tôi đã:“hoảng hồn”, “loạn hồn”, “điếng hồn”, “mất hồn”, “hết hồn”… vì
lá thư của bạn; nói gần nói xa chẳng qua
nói thật, tôi đã ở tâm trạng của sư phụ của tôi là Hàn Mạc Tử : «Một nửa hồn tôi đã chết/ một nửa hồn kia
bỗng dại khờ», giờ được tâm sự với bạn về câu chuyên lương tri của trí thức, nên tôi đã thật sự “hoàn hồn”. Bạn yên tâm nhé.
Người được bầu làm sư
tổ của triết học là Platon, có một người thầy bị hại bởi tà quyền rồi bị giết
bởi bạo quyền, người đó chính là Socrate, ông thầy của sư tổ để lại cho đời một
câu, mà ta nên trích ra đây để thêm nội công cho cuộc đối thoại của chúng
ta : « Những vương quốc cao
nhất của tư tưởng, chúng ta sẽ không sao tới được, nếu trước đó chúng ta không
đủ trình độ để tới gặp lòng từ bi ».
Chào tương tri trong bằng hữu,
chúc bạn có lương trong tri !
Thấy trong thương nhé!
[1] Oan
Luận, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook Vùng Khả Luận (trang thầy
Khóa) ;
Bụi Luận, Anthropol-Asie xuất bản, Facebook Vùng Khả Luận (trang
thầy Khóa)