09/11/2019
Hoài Hương-VOA
Di ảnh Hòa Thượng Thích Trí Quang. (Ảnh: Báo Giác Ngộ) |
Hòa Thượng Thích Trí Quang, một nhân vật
quan trọng trong Phật Giáo Việt Nam cận đại, đặc biệt giai đoạn chiến tranh
Việt Nam, viên tịch lúc 21 giờ 45 phút (giờ Việt Nam), ngày 8 tháng 11, 2019,
theo thông báo phát đi vào ngày 8 tháng 11 từ chùa Từ Đàm, đứng tên Tỳ Kheo
Thích Hải Ấn.
Hòa Thượng Trí Quang là một trong những
nhà lãnh đạo Phật giáo gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử chiến tranh Việt
Nam. Mãi cho tới ngày nay, nhiều thập niên sau khi chiến tranh kết thúc, báo
chí, dư luận quốc tế, trí thức trong và ngoài nước vẫn chưa hết thắc mắc, không
biết Hòa Thượng Thích Trí Quang theo quốc gia hay cộng sản; là cao tăng dấn
thân vì đạo, bị cộng sản Bắc Việt lợi dụng, hay là ‘CIA chiến lược’ như tố cáo
của các cán bộ cộng sản, hoặc ‘cộng sản nằm vùng’ hoạt động theo chỉ đạo từ Hà
nội. Những thắc mắc đó vẫn là đề tài tranh cãi không dứt giữa các nhà khoa
bảng, các nhà báo, cũng như trong giới tình báo Mỹ.
Nhưng điều mà dường như mọi người đều
đồng ý là Hòa Thượng Thích Trí Quang là một lãnh đạo Phật giáo đầy quyền lực
vào lúc mà sức mạnh của giáo hội Phật Giáo lên cao nhất trong những năm đầu và
giữa thập niên 1960. Lúc đó, Time, tạp chí có uy tín của Mỹ, đã đăng ảnh của
Hòa Thượng trên trang bìa với dòng chữ “người đã làm lung lay nước Mỹ”.
Thân thế và sự nghiệp
Theo quyển “Tiểu Truyện Tự Ghi” của Hòa
Thượng Thích Trí Quang, thì ông sinh quán của tại làng Diêm Điền thuộc khu vực
phía tây sông Nhật Lệ, tỉnh Quảng Bình.
Tên thật là Phạm Quang, Thích Trí Quang
sinh ngày 21/12/1923 tại Quảng Bình, xuất gia năm 1936, lúc 13 tuổi. Ông là đệ
tử của Hòa Thượng Thích Trí Độ, Chủ tịch Hội Phật Giáo Cứu Quốc. Tham gia hoạt
động của Hội Phật giáo này của Việt Minh, ông bị Pháp bắt giam năm 1946. Năm
1947, khi được thả, ông theo Việt Minh vào chiến khu chống Pháp. Nhưng sau đó
ông bỏ Việt Minh, trở lại con đường tu hành cho tới năm 1963, ông ‘cảm thấy có
trách nhiệm phải đứng lên bảo vệ Phật tử và Phật giáo’ sau sự kiện “Pháp Nạn
Phật giáo’, khi 8 thanh niên Phật tử bị bắn chết vào đêm 8/5/1963 ở chân cầu
Trường Tiền.
Làn sóng phản đối lan rộng, lên tới cao
điểm khi xảy ra vụ tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức ngày 11/6/1963, làm
thế giới bàng hoàng xúc động, tên tuổi của Thượng tọa Thích Trí Quang lan sang
Hoa Kỳ và thế giới.
Năm 1964, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất (GHPGVNTN) ra đời, đưa Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết làm Đệ Nhất Tăng
Thống, Thượng Tọa Thích Trí Quang là Chánh Thư ký Viện Tăng Thống, trong khi
Thượng Tọa Thích Tâm Châu là Viện trưởng Viện Hóa Đạo.
Tranh cãi
Báo chí ngoại quốc gọi Hòa Thượng Thích
Trí Quang là ‘người đã lật đổ chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm’ vào năm
1963.
Các học giả cánh hữu cho rằng Thích Trí
Quang có nhiều khả năng là cán bộ cộng sản hoạt động dưới sự chỉ đạo của Hà
Nội. Còn các học giả cánh tả lại cho rằng ông là một Thủ lãnh tôn giáo đấu
tranh bất bạo động cho hòa bình và để bảo vệ Phật giáo.
Trong bài tham luận mang tựa đề
“Political Monks: The Militant Buddhist Movement during the Vietnam War” -
“Tăng Sĩ làm chính trị: Phong trào đấu tranh Phật giáo trong Chiến tranh Việt
Nam”, tác giả Mark Moyar của Đại học Cambridge viết trong phần tóm lược nội
dung:
“Từ tháng 11/1963 cho tới tháng 7/1967,
phong trào đấu tranh Phật giáo là nguyên nhân chính gây bất ổn chính trị tại
Nam Việt Nam. Trong khi nhóm Phật giáo đấu tranh cho rằng họ đại diện cho đại
đa số Phật tử và chỉ đấu tranh cho tự do tôn giáo, trên thực tế họ chỉ là một
thiểu số, không đủ tư cách đại diện, đang tìm cách khống chế cả chính trường.”
Một nữ phóng viên chiến trường, từng
đoạt giải Pulitzer và làm phóng viên tại Toà Bạch Ốc, bà Marguerite Higgins, là
một trong những người hiếm hoi đã trực tiếp phỏng vấn Hòa Thượng Trí Quang. Sau
cuộc phỏng vấn tại Chùa Xá Lợi vào cuối năm 1963, bà Higgins không dấu vẻ hoài
nghi của bà đối với Hòa Thượng. Bà viết trong quyển ‘Our Vietnam Nightmare -
Cơn Ác mộng Việt Nam của chúng ta’, miêu tả vị cao tăng của Phật giáo Việt Nam
là “một Machiavelli thắp nhang.” Machiavelli ám chỉ một người quỷ quyệt, không
có đạo đức, chủ trương “cứu cánh biện minh cho phương tiện.”
Nhà đấu tranh cho nhân quyền và Phật
giáo Võ Văn Ái, cũng là một sử gia chuyên nghiên cứu về đạo Phật và lịch sử
Việt Nam, nói cá nhân ông rất khâm phục Hòa Thượng Thích Trí Quang, vì ông là
nhà sư am hiểu giáo lý Phật giáo rất thâm sâu, và có nhiều đóng góp cho Phật
giáo Việt Nam.
Ông Võ Văn Ái nói:
“Ngài là đại biểu, là tiếng nói của tinh
thần Phật giáo qua suốt 2000 năm, mà qua suốt 2000 năm đó đã chứng tỏ sự kết
hợp của Phật giáo Việt Nam, đối với dân tộc Việt Nam trên lĩnh vực tâm linh,
văn hóa cũng như trong vấn đề chống ngoại xâm. Trong cuộc đóng góp cho dân tộc
Việt Nam trên phương diện tôn giáo, tôi thấy sự đóng góp của Hòa Thượng Trí
Quang rất lớn và cho thấy tinh thần của Phật giáo Việt Nam.”
CIA nói gì về Hòa Thượng Trí Quang?
Theo một tài liệu được giải mật của CIA
có tựa đề “Momorandum for the Director”- (Báo cáo lên Giám Đốc) ghi ngày
11/9/1964 về đề tài ‘Động cơ, Mục tiêu và Ảnh hưởng của Thích Trí Quang’ ký tên
George A.Carver, Jr., đại diện nhóm ‘South Vietnam Working Group’, các tác giả
nói về Hòa Thượng Thích Trí Quang như sau:
“Đầy tham vọng, khôn khéo, một người
không ngần ngại dùng mọi mánh khóe để lôi kéo, vận động chính trị và là một kẻ
mị dân bẩm sinh. Ông là một trong những người hiếm khi xuất hiện - một nhà lãnh
đạo chính trị thiên bẩm.”
Sau khi phân tích, tài liệu này kết luận
rằng ‘không có bằng chứng thuyết phục để kết luận Thích Trí Quang là cộng sản’.
Các tác giả nói rằng những người tố cáo Hòa Thượng Trí Quang là cộng sản thường
là người của chế độ Tổng thống Ngô Đình Diệm, tuy cũng có một số nhà quan sát
Mỹ hiểu biết và công tâm cũng tin như vậy.
“Sau khi suy xét cẩn thận, kết luận của
chúng tôi là Trí Quang có phần chắc không phải là một người cộng sản, hoặc một
gián điệp Việt Cộng.”
Kết luận đó được dựa trên cơ sở ‘Không
một ai trong số nhiều người Việt thù ghét Thầy Trí Quang, chỉ chờ cơ hội để bôi
nhọ ông, và không ngừng tìm cách chứng minh ông là cộng sản, có thể đưa ra bằng
chứng vững chắc về bất cứ liên kết nào giữa ông với cộng sản.”
Đây cũng là ý kiến của nhà nghiên cứu
James McAllister của Đại học Cambridge, trong bài tham luận “Thích Trí Quang và
Chiến Tranh Việt Nam” (Only Religions Count in Vietnam: Thich Tri Quang and the
Vietnam War) được Nhà Xuất Bản Modern Asian Studies ấn hành năm 2007. Bài tham
luận viết:
“Nói tóm lại trong quá trình nghiên cứu
của tôi, tôi không tìm ra được bất cứ quan chức Mỹ nào có thể nhận diện được,
chưa nói tới bất cứ quan chức cấp cao nào, nghĩ Thích Trí Quang là người cộng
sản hay có cảm tình với cộng sản.”
Thông báo của chùa Từ Đàm. |
***
Theo bản tin trên báo Giác Ngộ, từ sau
năm 1975, "Đại lão Hoà thượng ở tại chùa Ấn Quang, rồi tu viện Quảng Hương
Già Lam (TP.HCM) độc cư, chuyên tâm hành trì, viết sách, dịch và chú giải kinh,
luật, luận…
Năm 2013, ở tuổi 91, Đại lão Hòa thượng
đã trở về thăm quê nhà sau hơn 60 năm xa cách và lưu lại chốn cũ là chùa Từ
Đàm, tiếp tục việc dịch thuật kinh điển và chuyên tâm hành trì cho tới ngày
viên tịch.
Ngài cũng đã về thăm lại nơi chôn nhau
cắt rốn, nơi được Bổn sư thế độ xuất gia, thăm lại mộ phần của song thân ở
Quảng Bình.
Được biết, Đại lão Hòa thượng được Bổn
sư phú pháp, Thiền tông Lâm Tế, Thiền hệ Đạo Mân Quốc sư, lưu xuất từ Tổ sư
Nguyên Thiều, với pháp danh Nhật Quang, pháp tự Trí Hải, pháp húy Thiền Minh.
Đạo hiệu Trí Quang là do Giáo thọ sư của ngài là Đại sư Trí Độ ban."
***
Theo thông báo ngày 8 tháng 11 của chùa
Từ Đàm, di huấn của Cố Hòa Thượng Trưởng Lão là:
“Sau giờ chết rồi độ 6 giờ là liệm.
Liệm rồi các Pháp tử lạy 3 lạy rồi là
đưa ra xe tang.
Không bàn thờ, bát nhang, báo tang,
thành phục, đưa đám, phúng điếu.
Chuyển đến lò thiêu; thiêu rồi đem về
chùa làm tuần, chung thất, trăm ngày, tiểu tường và đại tường.
Mỗi lễ chỉ tụng một trong các kinh: Địa
tạng, Kim cương, Bồ tát giới, Pháp hoa và Thủy Sám.
Mỗi lễ đều không thông báo và mời ai dự
cả.”