TS. Phạm Huy Thông*
Trong dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội 12 của Đảng có viết: “ Tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật về
tín ngưỡng, tôn giáo phát huy những giá trị văn hóa đạo đức tốt đẹp của các tôn
giáo”. Nếu so sánh với các văn kiện của Đảng trước đây chỉ thừa nhận giá trị
đạo đức của tôn giáo thì đây là bước tiến mới vì có thêm giá trị văn hóa của
tôn giáo được công nhận. Nhưng tôn giáo có lẽ không chỉ có hai giá trị đó.
Chúng ta cùng xem xét về lĩnh vực giáo dục của đạo Công giáo.
1- Quan
điểm về giáo dục
Giáo hội Công giáo có nhiều văn kiện hướng dẫn về giáo dục nhưng rõ
ràng nhất là Tuyên ngôn về giáo dục Kitô giáo (Gravissimum Ecudationis) đã được
Công đồng Vatican 2 thông qua ngày 14-10-1965. Ngay số 1 của Tuyên ngôn đã viết:
“Tất cả mọi người, không phân biệt
chủng tộc, giai cấp và tuổi tác, do phẩm giá con người, đều có một quyền bất khả
nhượng là phải được hưởng một nền giáo dục đáp ứng với sứ mạng riêng, phù hợp với
cá tính của từng phái, thích nghi với văn hóa và truyền thống dân tộc, đồng thời
mở rộng sự hợp tác với các dân tộc khác, để hỗ trợ công cuộc hợp nhất chân
chính và hòa bình trên mặt đất. Vậy nền giáo dục chân chính là việc đào tạo con
người, nhằm đạt tới cùng đích của mình cũng như lợi ích đoàn thể mà họ là đoàn
viên, và họ sẽ tham gia phục vụ khi đến tuổi trưởng thành” (1).
Về mục đích của giáo dục, ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới
đều thống nhất, giáo dục là đào tạo con người toàn diện nhưng về phương pháp, về
vai trò của những thành phần tham gia vào giáo dục, mục đích của giáo dục thì
khác nhau. Điều 2 Luật Giáo dục Việt Nam viết: “ Mục tiêu đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức,
tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành, bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng
lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Như vậy, mục tiêu của giáo dục là nhằm đào tạo con người trung thành với ý thức
hệ của xã hội là nhiệm vụ hàng đầu chứ không phải phục vụ cộng đồng nhân loại
hay quốc gia. Trái lại mục tiêu của giáo dục Công giáo ghi rõ:
“Giúp trẻ em và thanh thiếu niên
phát triển điều hòa những năng khiếu thể xác luân lý và tinh thần, ý thức dần dần
trách nhiệm cách rõ rệt hơn, nhờ luôn luôn cố gắng trau dồi đúng mức đời sống cá nhân và theo đuổi sự tự do chân
chính với lòng can đảm và kiên nhẫn lướt thắng mọi trở ngại. Phải tích cực và
thận trọng giáo dục chúng về phái tính tùy từng lứa tuổi. Ngoài ra phải huấn
luyện cho chúng biết tham dự vào đời sống xã hội, để sau khi được chỉ dẫn đầy đủ
về những phương tiện cần thiết và thích hợp, chúng có thể tích cực dấn thân vào
những đoàn thể khác nhau của cộng đồng nhân loại, sẵn sàng đối thoại với người
khác cũng như hăng say hoạt động để góp phần thực hiện lợi ích chung” (2).
Trong thư giử các thày cô giáo nhân ngày 20-11-2014, Giám mục Đinh Đức
Đạo- Chủ tịch Ủy ban Giáo dục của Hội đồng Giám mục Việt Nam nhắn nhủ: “ Xin quý thày cô dạy dỗ và huấn luyện cho các
em biết sống theo lương tâm để trở thành muối, thành men tốt trong xã hội. Chớ
gì quý thày cô giáo được nhận biết và cảm phục như những người sống và giáo dục
các sinh viên học sinh có lương tâm ngay thẳng, có tinh thần trách nhiệm và tôn
trọng sự sống” (3). Giáo dục cho người học biết sống theo lương tâm ngay thẳng
đặc biệt là giáo dục làm người là điều khác biệt với lối giáo dục thông thường.
Giám mục Đinh Đức Đạo nhận xét:
“ Các trường học trong xã hội
hôm nay chỉ nhắm tới đào tạo các chuyên viên, chứ không dạy làm người. Vì vậy,
có khi xảy ra trường hợp một học sinh sinh viên học giỏi, điểm cao, rồi khi
thành công lại trở nên ích kỷ, hại người…Theo giáo huấn của Hội thánh, để thấm
nhuần tâm tình của Chúa Giêsu hòa lẫn với những nét tươi đẹp của văn hóa dân tộc,
việc luyện tập cần phải được toàn diện gồm đủ 4 chiều kích của cuộc sống con
người gồm: nhân bản, tâm linh, trí tuệ và khả năng chuyên môn” (4).
Nhân đây cũng nói thêm rằng, ở Việt Nam chưa chú trọng khoa học nhân
văn mà mới chú ý đến khoa học xã hội dù có 2 trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam qua 11 lần đổi tên từ Ban
nghiên cứu Lịch sử, Địa lý, Văn học năm 1953 đến nay cũng chỉ duy nhất năm 1993
có tên đầy đủ là Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia. Các Viện của
Viện Hàn lâm KHXH hiện nay chủ yếu là nghiên cứu xã hội. Chưa có khoa học
nghiên cứu về con người (humanism) thì làm sao giáo dục được con người đầy đủ,
đúng nghĩa được.
Theo Luật Giáo dục của Việt Nam ban hành năm 2009, điều 15 viết: “Nhà giáo có vai trò quyết định trong việc đảm
bảo chất lượng giáo dục”. Vì vậy dễ hiểu, nhiều phụ huynh khi gặp các thày
cô đều có câu cửa miệng: Trăm sự nhờ thày. Còn theo quan điểm giáo dục Công
giáo lại khác: “Vì là người truyền sự sống
cho con cái, nên cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng là giáo dục chúng và vì
thế họ được coi là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của chúng. Vai trò
giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu sót thì khó lòng bổ khuyết được”
( Gd, số 3). Như vậy cha mẹ có vai trò quan trọng trước hết trong giáo dục chứ
không phải các thày cô. Điều 3 Luật giáo dục Việt Nam ghi nền tảng của giáo dục
là “chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh” và “Nhà nước giữ vai trò chủ
đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục” (điều 12), còn phía Công giáo chủ
trương phản đối chính trị hóa học đường: “Phải
loại trừ mọi chế độ độc quyền học hiệu, vì tất cả mọi chế độ độc quyền thuộc loại
này đều trái với quyền tự nhiên của con người, cản trở sự tiến bộ và phổ biến
văn hóa, làm tan loãng bầu khí thuận hòa giữa các công dân và nghịch với thuyết
đa dạng” (Gd, số 6). Nhà nước cũng có vai trò quan trọng: “Chính quyền có bổn phận lo liệu cho mọi công
dân được tham dự thực sự vào nền văn hóa và được huấn luyện thích đáng để thi
hành nhiệm vụ và quyền lợi của công dân” (Gd, số 6). Như vậy nhà nước phải
lo về cơ chế chính sách, cơ sở vật chất và đào tạo giáo viên chứ không phải là
quyết định tất cả.
2- Kết quả
Với quan niệm như trên, giáo dục Công giáo đã thành công. Trước hết,
có rất nhiều trường nổi tiếng, có truyền thống tới cả ngàn năm được Công giáo tạo
dựng ở nhiều nước trên thế giới như trường Bologna, Sorbonne ở Pháp, Cambridge,
Oxford ở Anh, Santa Clara, Loyola, Marymourt, Setatle, Boston…ở Hoa Kỳ.
Oxford là Viện đại học nghiên cứu liên hợp ở Oxford hoạt động giảng dạy
từ năm 1906. Đây là đại học lâu đời nhất trong thế giới nói tiếng Anh và cũng
là đại học có tuổi đời dài thứ 2 thế giới còn tồn tại đến ngày nay. Khẩu hiệu của
nhà trường có tiếng Latinh là Dominus
Iluminatio Mea (Chúa là ánh sáng đời tôi). Trường lập ra lúc đầu là để đào
tạo giáo sĩ Kitô giáo. Năm 1036, Viện trưởng Wiliam Land- Tổng Giám mục
Canterbury đã xây dựng quy chế chuẩn hóa đại học và vẫn được áp dụng đến ngày
nay. Các cuộc cải cách ở Anh đã ảnh hưởng đến nội dung đào tạo. Ví dụ phần triết
học kinh viện đã bị bãi bỏ năm 1636 và thay vào đó là nghiên cứu Kinh thánh, cầu
nguyện và chia sẻ tâm linh. Nhiều “Câu lạc bộ thánh” đã ra đời từ ngôi trường
này quy tụ giáo viên và sinh viên đi làm từ thiện, thăm viếng tù nhân, dạy học
cho trẻ mồ côi…và đã ảnh hưởng nhiều đến các cuộc cách mạng tư tưởng ở châu Âu.
Viện đại học này hiện có 38 đại học thành viên. Trường đã có 27 cựu sinh viên
được trao giải Nobel, 26 Thủ tướng Anh và nhiều chính trị gia trên thế giới.
Trường Cambridge là Viện đại học công được thành lập ở Anh năm 1209,
chỉ sau địa học Oxford. Khẩu hiệu của trường là Hinc lucem et procula saera (Từ đây ánh sáng và Chén thánh, nghĩa
là từ nơi này, chúng ta đạt được sự khai tuệ và tri thức quý giá). Đây là trường
mà Giáo hội Công giáo rất kỳ vọng. Năm 1231, Giáo hoàng Gregory IX cho phép mọi
sinh viên tốt nghiệp trường Cambridge được đi giảng dạy khắp thế giới Kitô giáo.
Giáo hoàng Nicholas IV coi trường Cambridge như một “studium generale” (Cơ sở
giáo dục đa năng). Mục tiêu của trường lúc đầu cũng là đào tạo linh mục , tu sĩ
Kitô giáo. Khi Anh giáo ra đời ở thế kỷ XVI, triết học kinh viện cũng không được
giảng dạy tại trường và được thay bằng môn nghiên cứu Kinh thánh và Toán học, Vật
lý học. Hai bộ môn toán và lý ở đây đã cung cấp những nhà khoa học lớn cho thế
giới như G.H Hardy, W.V.D Hodge, Lord Kelvin, J. Thomson…Riêng môn toán đã có 6
người đạt giải Fields và Abel. Trường hiện có 31 đại học thành viên và nhiều
phân khoa. Trường đã có 90 người được giải Nobel và nhiều nhà lãnh đạo các quốc
gia.
Trường đại học Sorbonne là tên thường gọi của Viện đại học Paris. Đại
học Paris được thành lập năm 1257. Đây là trường đại học thành lập vào loại sớm
ở châu Âu. Khẩu hiệu của trường là Hic et
ubiique terrarum (Ở đây và bất cứ nơi đâu trên trái đất) . Từ năm 1970, Viện
đại học Paris có 13 thành viên và có 3 trường đại học thành viên vẫn còn gắn với
danh từ Sorbonne là Paris I, III và IV. Đại học Sorbonne gắn liền với tên tuổi
khoa Thần học. Rất nhiều triết gia, thần học gia, nhà khoa học, chính khách đã
xuất thân từ mái trường này như Giáo hoàng Benoil XVI, Giám mục Ngô Đình Thục,
triết gia Jean Paul Sartre, P. Teihard de Chardin, Jean Calvin, Toma Aquino, hai
vợ chồng bác học P. Curie…Rất nhiều người Việt Nam đã lấy bằng Tiến sĩ từ trường
này như linh mục Trương Bá Cần, Thiện Cẩm, Nguyễn Văn Trung, triết gia linh mục
Lương Kim Định Giáo sư Ngô Bảo Châu…
Tại Hoa Kỳ, có đủ các loại trường của các tôn giáo, riêng trường Công
giáo khá nhiều từ bậc mẫu giáo đến đại học, sau đại học. Riêng đại học cũng có
nhiều trường nổi tiếng như Notre Dame (thành lập năm 1842), Seattle (lập năm
1891), Oklahoma, Boston nhưng nổi tiếng nhất là 28 trường đại học của dòng Tên
(dòng Chúa Giêsu). Theo xếp hạng của tổ chức US News & World 2016, trong 84
trường đào tạo Master tốt nhất ở Hoa Kỳ thì dòng Tên có 5 trường là Santa Clara
(thứ 2), Lyola (thứ 3), Goygaga (thứ 4), Georgetown (thứ 21), Holy Cross Thứ
32). Trường Creighton liên tục 13 năm liền
đứng đầu trong chương trình đào tạo Martes ở Trung Hoa Kỳ. Trường Santa Clara
là trường có tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp cao ở Hoa Kỳ tới 85%. Trường Georgetown
là trường được xếp hàng đầu về đào tạo ngành ngoại giao, tài chính ở Hoa Kỳ. Tổng
thông Bill Clinton của Hoa Kỳ hay Gloria Arroyo của Philippin đã từng học tại
đây. Các trường này đều lấy những ý trong Kinh thánh làm khẩu hiệu như trường
Notre Dame khẩu hiệu là Vita, Dulcedo,
Spes (Sự sống, An vui, Cậy trông). Các trường này đều đào tạo đa ngành và
sinh viên tốt nghiệp rất dễ kiếm việc làm.
Trên phạm vi toàn cầu, theo thống kê của Giáo hội năm 2012, Giáo hội
Công giáo đang quản lý 70.544 trường mẫu giáo với 6.478.627 học sinh, 92.847
trường tiểu học với 31.151117 học sinh, 43.591 trường trung học với 17.793.559
học sinh, 12.662 trường đại học, cao đẳng với 2.304.171 sinh viên và 3.373.445
sinh viên đại học.
Tại Việt Nam, giáo hội Công giáo cũng xây dựng nhiều trường học nhưng ở
miền Bắc sau năm 1954 bị đóng cửa nên ít thấy kết quả. Ở miền Nam, đến năm
1969, giáo hội Công giáo quản lý 1030 trường tiểu học với 258.409 học sinh Công
giáo và 97.347 học sinh ngoài Công giáo; 226 trường trung học với 82.827 học
sinh Công giáo và 70.101 học sinh ngoài Công giáo (5). Hiện nay, theo Pháp lệnh
tín ngưỡng, tôn giáo , Công giáo chỉ được mở trường mẫu giáo và một số lớp tình
thương với 675 trường mẫu giáo và 145 lớp tình thương tiểu học thu hút 125.594
trẻ đến trường chiếm 3,06% số trẻ trong độ tuổi đi học.
Chúng tôi chưa có điều kiện để làm so sánh những ưu điểm của các trường
Công giáo nhưng chỉ cần xem qua các trường mẫu giáo do các nữ tu Công giáo điều
hành sẽ thấy ở các trường này rất ít tiêu cực nhũng nhiễu, chắc chắn không có
chuyện bạo hành trẻ em và điều lạ là chính con em cán bộ, công an lại thích gửi
vào trường này dù các trường rất bị hạn chế số lượng tuyển sinh. Điều gì đã làm
nên khác biệt của trường Công giáo chính là đội ngũ giáo viên. Họ sống theo niềm
tin tôn giáo. Tổng Giám mục David M.O’Connel, Hiệu trưởng một trường Công giáo
tại Hoa Kỳ trao đổi rằng:
“Một trường đại học chịu ảnh hưởng
trực tiếp từ một tôn giáo hay đức tin cụ thể nào, ngoài truyền được đến thế giới
học thuật rằng trường tôn giáo đó sở hữu ý thức đặc trưng và khác biệt của mình
trong môi trường giáo dục và niềm tin này đang đóng góp có mục đích vào nền
giáo dục đại học nhờ đức tin…Nếu một thực sự mang tính tôn giáo, mọi người
trong và ngoài khu học xã đều thấy rằng các trường tôn giáo vì sứ mệnh của nó
có cộng thêm một giá trị, nên giáo dục đại học và yếu tố cộng thêm này là một
thứ gì đó thu hút mọi người, kéo mọi người đến trường” (6).
Ở các nước Âu- Mỹ, từ khi có Luật phân ly năm 1905, thì nhà trường đều
tách khỏi giáo hội nhưng không có nghiã là giáo hội bị cấm mở trường học và rõ
ràng các trường của tôn giáo trong đó có Công giáo đã góp phần làm nên thành
công của nền giáo dục các nước tiên tiến này. Chúng tôi hy vọng với sự chuẩn bị
của Luật tín ngưỡng, tôn giáo hiện
nay, các tôn giáo sẽ được góp sức không hạn chế vào các lĩnh vực là thế mạnh và
truyền thống của mình là y tế, giáo dục, từ thiện bác ái.
Chú thích:
* Phó Trường ban Tư duy tôn giáo, trung tâm Khoa học Tư duy CTS
1-
Thánh Công đồng Vatican 2, Giáo hoàng Học viện xuất bản 1972, tr.444
2-Sđ d, tr.445
3-
Thư Giám mục
Đinh Đức Đạo gửi thày cô giáo nhân ngày 20-1-2014
4-
Thư Giám mục
Đinh Đức Đạo gửi học sinh sinh viên nhân năm học mới 2014-2015
5-
Bùi Đức
Sinh: Lịch sử Giáo hội, Sài Gòn xuất
bản 1972, tr.375
6-
Bài phát biểu
tại trường Harvard , Maxreading.com/sach hay, ngày 25-10-2014