..Khi thủ tướng nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa ký công hàm 1958 thì văn kiện này gặp trở ngại lớn lao về pháp
lý. Đó là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, như một quốc gia, không có tư cách
pháp lý, nhường một phần lãnh thổ (Hoàng Sa và Trường Sa) thuộc chủ quyền của một
đệ nhị quốc gia là nước Việt Nam Cộng Hòa, cho một đệ tam quốc gia là nước Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Hoa...
Đại dịch Vũ Hán đang tàn phá Trung Hoa Lục
Địa và toàn thể nhân loại. Tuy thế, tai họa này vẫn không giảm thiểu tham vọng
bá quyền xâm lược của đảng CSTQ đối với Việt Nam qua các hoạt động tập trận,
xâm phạm lãnh hải và vùng kinh tế cũng như hiếp đáp gây thiệt hại cho ngư dân
Việt Nam.
Nhà cầm quyền CSVN gần đây đã gởi 3 công
hàm (30/3, 10/4 và 14/4) cho Liên Hiệp Quốc khẳng định chủ quyền Việt Nam tại
Hoàng Sa và Trường Sa.
Phía Trung Quốc trả đũa bằng cách trưng
ra Công Hàm của cố thủ tướng CSVN Phạm Văn Đồng ký ngày 14 tháng 9 năm 1958 như
là một biện minh cho chủ quyền TQ tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Hầu đả phá toàn diện biện minh này của
TQ, chúng ta cũng phải duyệt lại một lần nữa giá trị pháp lý của công hàm Phạm
Văn Đồng. Tôi đã nêu ra lập luận này ngày 3/8/2016:
Nội dung của công hàm này là gì?
Công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng ký
ngày 14 tháng 9 năm 1958, gởi cho Chu Ân Lai, Tổng Lý Quốc Vụ Viện, tương đương
thủ tướng Trung Quốc, nội dung như sau:
“Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo
tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận
và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà
Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có
trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan
hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng
chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
Phạm Văn Đồng
Thủ tướng chính phủ
Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”.
Câu hỏi mà mọi công dân Việt Nam yêu nước
luôn nêu ra là: liệu công hàm Phạm Văn Đồng có giá trị pháp lý, trước một pháp
đình nghiêm chỉnh hay không?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải
qua một quá trình phân tách như sau.
Trước hết, người CSVN cho đến bây giờ, vẫn
luôn biện minh rằng, công hàm này chưa từng nhắc đến Hoàng Sa và Trường Sa. Vì
thế không thể kết luận rằng công hàm xác nhận hai quần đảo này thuộc TQ.
Tuy nhiên người TQ sẽ phản biện rằng,
công hàm này tán thành tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Trung Quốc “quyết
định về hải phận 12 hải lý” của họ. Tuyên bố của TQ ghi rõ:
“Chính phủ nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa nay tuyên bố:
1. Bề rộng lãnh hải của nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải
đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển
cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần
đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.”
Hoàng Sa thì TQ gọi là Tây Sa và Trường
Sa thì TQ gọi là Nam Sa.
Người CSVN có thể lập luận rằng, công
hàm này chỉ giới hạn ở vấn đề hải phận 12 hải lý.
Trong khi đó, người CSTQ sẽ lập luận rằng,
trong một văn kiện quan trọng như thế, nếu muốn giới hạn thì ông Phạm Văn Đồng
đã ghi rõ rằng Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Khi Phạm
Văn Đồng không làm điều đó thì đã chứng minh sự công nhận chủ quyền TQ trên hai
quần đảo này.
Điểm thứ nhì cần phân tích là một văn kiện
nhường chủ quyền của một thành phần máu huyết của tổ quốc, cho một ngoại bang
như TQ, như công hàm này, đã thông qua những thủ tục hiến định cần thiết hay chưa?
Để giải quyết vấn nạn này, chúng ta cần
duyệt lại nội dung hiến pháp có hiệu lực vào thời điểm ông Phạm Văn Đồng ký
công hàm. Người CSVN kinh qua nhiều hiến pháp khác nhau. Hiến pháp 1946, 1959,
1980, 1992 và 2013.
Thời điểm ký phù hợp với Hiến Pháp 1946
vì Hiến Pháp 1959 chỉ được Quốc Hội thông qua ngày 31 tháng 12, 1959 và Ông Hồ
Chí Minh công bố ngày 1 tháng 1, năm 1960.
Khi phân tích Hiến Pháp 1946, thì Nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa theo quốc hội chế. Quốc hội lúc đó gọi là Nghị Viện
Nhân Dân và theo điều 23 có trách nhiệm chuẩn y các hiệp ước ký với nước ngoài.
Theo điều 32 Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc
quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý. Sau cùng theo điều 49 chỉ có
chủ tịch nước, tức ông Hồ Chí Minh mới có quyền “ký hiệp ước với các nước”.
Trong Hiến Pháp 1946, chức vụ thủ tướng
hoàn toàn chịu sự lãnh đạo của chủ tịch nước và không có quyền ký một văn bản
quan trọng liên hệ đến vận mệnh hoặc chủ quyền quốc gia. Ngay cả trong trường hợp
ông Hồ Chí Minh đích thân ký công hàm này, cũng không thể có hiệu lực vì nhân
dân chưa có phúc quyết theo điều 32 và Nghị Viện Nhân Dân chưa chuẩn y.
Dĩ nhiên cả hai ông Hồ Chí Minh, Phạm
Văn Đồng và Bộ Chính Trị lúc đó đều ý thức điều này. Nếu muốn công hàm có hiệu
lực, họ phải khơi động (invoke) các điều khoản hiến pháp liên hệ và thông qua
những thủ tục hiến định. Sau đó đích thân ông Hồ Chí Minh, thừa ủy nhiệm của
Nghị Viện Nhân Dân, theo điều 49 hiến pháp, ký vào công hàm. Tuy nhiên, một là
lãnh đạo các đảng CS kể cả CSTQ có thói quen coi thường hiến pháp. Thói quen
này này của họ vô hình trung trở thành một lợi điểm pháp lý cho chúng ta. Hai
là cả Hồ Chí Minh lẫn Phạm Văn Đồng muốn lập lờ đánh lận con đen với cả Trung
Quốc lẫn nhân dân Việt Nam, hầu nhận sự Viện trợ của Trung Quốc.
Dĩ nhiên Trung Quốc có thể vin vào điều
27 của Công Ước Vienna về Luật các Hiệp Ước (Vienna Convention on the Law of
Treaties) quy định rằng một quốc gia không thể viện dẫn một luật nội địa để
không thi hành một hiệp ước. Tuy nhiên điều 27 có thể bị điều 46 phủ quyết và
điều 46 ghi rõ như sau:
“Một quốc gia không thể viện dẫn sự kiện rằng
sự đồng ý của mình để bị ràng buộc bởi một hiệp ước đã được thể hiện qua sự vi
phạm một điều khoản của luật nội địa liên hệ đến thẩm quyền ký kết hiệp ước,
như là yếu tố vô hiệu hóa sự đồng ý này, trừ khi sự vi phạm là hiển nhiên và
liên hệ đến một quy luật nội tại có tầm mức quan trọng nền tảng”. (A State may not invoke the
fact that its consent to be bound by a treaty has been expressed in violation
of a provision of its internal law regarding competence to conclude treaties as
invalidating its consent unless that violation was manifest and concerned a
rule of its internal law of fundamental importance.)
Hiến pháp 1946 là luật nền tảng và sự vi
phạm nó là là hiển nhiên và sẽ bị điều 46 Công Ước nêu trên chế tài và sẽ bị
cho là vô hiệu lực.
Đó là chưa kể lập luận của chúng ta sẽ
là: vì vi phạm những nguyên tắc căn bản nêu trên, không có một hiệp ước nào được
thành lập ngay từ khởi thủy (ab initio) nhường Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung
Quốc cả.
Tức là lập luận của chúng ta sẽ vững
chãi trên cả hai bình diện nêu trên và một bình diện quan trọng thứ 3:
1. Một là không có hiệp ước công nhận
Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc ngay từ đầu;
2. Hai là nếu có, thì sẽ bị vô hiệu hóa
chiếu theo điều 46 của Công Ước Vienna nêu trên;
3. Điểm thứ ba vô cùng quan trọng là vào
thời điểm đó, Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia có cương thổ, quân đội, chủ quyền
pháp lý lẫn thực tế trên Hoàng Sa và Trường Sa. VNCH được Hoa Kỳ và 87 quốc gia
khác công nhận. Nếu Liên Bang Xô Viết không phủ quyết thì năm 1957, VNCH đã trở
thành một quốc gia thành viên của LHQ. Tuy thế VNCH đã là thành viên của nhiều Ủy
Ban của Liên Hiệp Quốc.
Bắc Việt tức nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa bị phần lớn các quốc gia tự do tẩy chay. Chỉ được các nước cộng sản khác
công nhận.
Chính vì thế khi thủ tướng nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa ký công hàm 1958 thì văn kiện này gặp trở ngại lớn lao về pháp
lý. Đó là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, như một quốc gia, không có tư cách
pháp lý, nhường một phần lãnh thổ (Hoàng Sa và Trường Sa) thuộc chủ quyền của một
đệ nhị quốc gia là nước Việt Nam Cộng Hòa, cho một đệ tam quốc gia là nước Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Hoa.
Phán quyết ngày 12 tháng 7, 2016 của Tòa
Trọng Tài Thường Trực tại The Hague, Hà Lan, chiếu theo Công Ước Liên Hiêp Quốc
về Luật Biển (UNCLOS) trong cuộc tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines, vô
hiệu hóa Đường Lưỡi Bò 9 đoạn của Trung Quốc và giới hạn các quyền lợi liên hệ
đến các quần thể trên Biển Đông trong vòng hải phận 12 hải lý, cũng là một án lệ
quốc tế vô cùng thuận lợi cho Việt Nam.
Với các lý do nêu trên, chúng ta có thể
kết luận rằng, trước một pháp đình có thẩm quyền nghiêm chỉnh, công hàm liên hệ
đến chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của cựu thủ tướng CSVN Phạm Văn Đồng ký
ngày 14 tháng 9 năm 1958 sẽ không có giá trị pháp lý và nhà cầm quyền CSVN cần
phải đưa Trung Quốc ra tòa càng sớm càng tốt, hầu bảo vệ chủ quyền thiêng liêng
của tổ quốc Việt Nam.
Năm nay và một vài năm sắp tới sẽ là thời
điểm mà uy tín trên chính trường cũng như vũ trường công pháp quốc tế của đảng
CSTQ sẽ suy yếu rõ rệt và sẽ là thời điểm tốt nhất để khởi kiện CSTQ.
22.04.2020