27 avril 2020

Trả lời phỏng vấn về Hoàng sa và Trường Sa của TS Dương Danh Huy, UK


1.      Thưa ông, Trung Quốc vừa gửi công hàm lên LHQ bác bỏ công hàm trước đó của Việt Nam. Trong công hàm này, Trung Quốc có nhắc đến công hàm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng 1958. Theo ông, tính pháp lý của công hàm 1958 thế nào đặt trong bối cảnh lúc bấy giờ và theo luật pháp quốc tế?



Thưa chị, việc Trung Quốc gửi công hàm 17/4/2020 cho Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa, gửi đến TBT LHQ và yêu cầu chuyển đến các quốc gia thành viên của LHQ, trong công hàm có nhắc đền công hàm Phạm Văn Đồng, là một sự leo thang trong cuộc tranh biện về Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông. Tuy Trung Quốc đã vận dụng công hàm Phạm Văn Đồng từ lâu, nhưng đây là lần đầu tiên họ làm như thế, chứng tỏ họ rất tự tin về lập luận của họ, và động thái đó là nhằm dồn Việt Nam vào chân tường trong cuộc tranh biện trên đấu trường chính trị.



Trước hết, có thể khẳng định rằng vào năm 1958 không có một nước Việt Nam thống nhất như bây giờ, và lúc đó chính phủ VNDCCH không được thế giới nói chung cho là có thẩm quyền đối với phía nam vĩ tuyến 17, không được thế giới nói chung cho là có trách nhiệm pháp lý phải khẳng định chủ quyền lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 17. Do đó, những gì Thủ tướng Phạm Văn Đồng của chính phủ đó, hay những người khác có chức năng, phát biểu hay không phát biểu vào lúc đó đều không có giá trị pháp lý để thay đổi về chủ quyền lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 17 vào lúc đó.



Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải quan tâm đến khía cạnh động thái đó và các động thái tương tự của chính phủ đó có ý nghĩa pháp lý gì khi VNDCCH và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thống nhất thành CHXHCNVN năm 1976.



Theo tôi, khi VNDCCH và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thống nhất thành CHXHCNVN năm 1976 thì Cộng hòa Miền Nam Việt Nam hoàn toàn có chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Song song, trong trường hợp tệ nhất VNDCCH có thể bị các học thuyết như estoppel và acquiescence ràng buộc không được tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo đó với Trung Quốc. Như vậy, trong trường hợp tệ nhất CHXHCNVN sẽ phải thừa kế hai yếu tố có mâu thuẫn với nhau và có lẽ chỉ có tòa án quốc tế mới có thể giải quyết sự mâu thuẫn đó.



Theo ý tôi, VNDCCH cũng đã không phản đối khi Philippines đòi chủ quyền ở Trường Sa, khi Campuchia, Thái Lan, Malaysia đòi thềm lục địa, khi Campuchia đòi đảo và lãnh thổ. Thậm chí, VNDCCH còn có những tuyên bố có lợi cho Campuchia. Thế nhưng không có nước nào hay học giả nào công khai cho rằng hành vi của VNDCCH ràng buộc CHXHCNVN phải chấp nhận các yêu sách của các nước kia. Trong đàm phán với các nước này, CHXHCNVN đã vận dụng các yêu sách của VNCH, và không có nước nào hay học giả nào công khai cho rằng CHXHCNVN không có quyền vận dụng các yêu sách đó.



2.      Công hàm năm 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng có đồng nghĩa với việc thừa nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc hay không?



Theo ý tôi điều quan trọng là vào năm 1958 đó chính phủ VNDCCH không được thế giới nói chung cho là có thẩm quyền đối với phía nam vĩ tuyến 17, không được thế giới nói chung cho là có trách nhiệm đối với vấn đề chủ quyền lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 17. Vì vừa không có thẩm quyền, vừa không có trách nhiệm pháp lý phải khẳng định chủ quyền, và công hàm đó không phải là để trả lời Trung Quốc về chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa thì cũng không hội tụ được các điều kiện của estoppel để ràng buộc VNDCCH.



3.      Theo ông, liệu Việt Nam có vô hiệu hóa được công hàm 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không? Và bằng cách nào?



Trong phạm trù pháp lý, vấn đề là  chứng minh công hàm Phạm Văn Đồng có hiệu lực gì hay không khi nó ra đời và khi VNDCCH và CHMNVN thống nhất lại thành CHXHCNVN năm 1976. Nếu chứng minh được nó không có hiệu lực ràng buộc CHXHCNVN thì không có gì để vô hiệu hóa. Ngược lại nếu Trung Quốc chứng minh được nó có hiệu lực ràng buộc CHXHCNVN thì Việt Nam không thể đơn phương vô hiệu hóa nó.



4.      Nếu không vô hiệu hóa được công hàm 1958, Việt Nam sẽ gặp những khó khăn gì khi kiện Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế?



Như tôi nói trên, vấn đề không phải là vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng mà là nếu ra tòa thì phải chứng minh:



         Thứ nhất, khi nó ra đời, nó không có hiệu lực để thay đổi về chủ quyền lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 17.

         Thứ nhì, nó không hội tụ đủ các điều kiện của hoc thuyết estoppel để tạo ra sự ràng buộc pháp lý cho VNDCCH.

         Thứ  ba, chứng minh khi VNDCCH và CHMNVN thống nhất lại thành CHXHCNVN năm 1976 thì CHXHCNVN đã thừa kế chủ quyền đối với vùng lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 17, trong đó có Hoàng Sa, Trường Sa. Dù lúc đó Hoàng Sa có bị Trung Quốc chiếm đóng thì trên diện pháp lý CHXHCNVN vẫn có thể thừa kế chủ quyền.

         Thứ tư, nếu không chứng minh được điều thứ nhì, phải chứng minh rằng dù VNDCCH có bị ràng buộc không được khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa trước Trung Quốc đi nữa, CHXHCNVN vẫn được làm điều đó. 



5.      Thưa ông, vì sao Trung Quốc lại đưa công hàm lên LHQ vào thời điểm dịch Covid-19 này? Phải chăng Trung Quốc đang lợi dụng tình hình dịch bệnh để đẩy mạnh yêu sách trên Biển Đông?



Tình hình thế giới trong COVID-19 cho Trung Quốc một thời cơ tốt để lấn lướt, thậm chí lấn chiếm, ở Biển Đông. Việc họ gửi công hàm cho Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa thì chỉ là hệ quả của việc Malaysia đệ trình về ranh giới ngoài của thềm lục địa vào tháng 12/2019. Tuy nhiên việc họ đưa công hàm Phạm Văn Đồng vào vấn đề là điều đáng suy nghĩ. Đó có phải là một sư leo thang tranh biện bình thường? Hay họ dồn Việt Nam vào chân tường để Việt Nam phải lộ ra phần nào lập luận pháp lý của mình? Hay họ dọn đường dư luận cho động thái kế tiếp nào đó?



6.      Với tình hình căng sức chống dịch như chống giặc hiện nay, Việt Nam có lợi thế và bất lợi gì trong cuộc chiến với Trung Quốc về vấn đề Biển Đông?



Theo tôi, từ khi tình hình Biển Đông nóng lên từ năm 2007, 2008 tới nay, chưa có khi nào bất lợi và nguy hiểm cho Việt Nam như hiện nay.