Tô
Văn Trường
Vấn nạn thắng thầu - tham nhũng
và “đi đêm” để tăng lợi nhuận của nhà thầu thì nước nào cũng có, nhưng ở Việt
Nam nó tiếp diễn ngang nhiên bất chấp mọi chỉ trích của công luận, đặc biệt khu
vực công là nơi mà nó thể hiện rõ nét nhất. Để ngăn chặn vấn nạn này thì chỉ có
hai con đường (1) Hoàn thiện môi trường luật pháp và (2) Ngăn chặn nạn tham
nhũng, hối lộ.
Có nhiều mô hình của các nước
tiên tiến mà ta có thể tham khảo, nhưng triển khai áp dụng là không thể, hình như
khó vượt qua thứ mà mang tính bao trùm lên tất cả là vấn đề thể chế chính trị,
xã hội và người có quyền trong thể chế.
Mưu
đồ của Trung Quốc là khống chế toàn diện Việt Nam về chính trị-tư tưởng, về
kinh tế, văn hóa-xã hội, về quan hệ đối ngoại, cô lập, lấn chiếm gây sức ép từ
phía biển và trên đất liền...để cưỡng chế VN phải thuận theo chiến lược của họ,
thực chất là biến VN thành chư hầu, phụ thuộc, không bao giờ ngóc đầu lên được.
Đây là điều không thể mơ hồ.
Trên
thực tế, Trung Quốc đã thực hiện được phần lớn những bước đi trong một chiến
lược toàn diện nhằm mục tiêu của họ. Việt Nam đối phó bị động, nói chung là
không thành công mà nguyên nhân cơ bản là nhiều người có trách nhiệm vẫn mơ hồ,
không đánh giá đầy đủ nguy cơ Trung Quốc, có tâm lý "sợ" họ làm căng,
không dựa vào dân. Chính sự mơ hồ đó, cộng với sự kém cỏi về kinh tế và lòng
tham không được ngăn chặn của nhiều chủ đầu tư đã gây ra những "lỗi"
trong quan hệ kinh tế với Trung Quốc, rẩt dễ bị đội ngũ chiến tranh tâm lý của
chính Trung Quốc khai thác cũng như những "thế lực khác" lợi dụng.
Trung
Quốc biết rất rõ Việt Nam chỉ muốn được yên thân, tự mình chọn đường đi
giữ vững nền độc lập và lợi ích chính đáng của mình, không cam tâm làm công cụ
cho ai chống Trung Quốc. Nhưng lòng tham vô đáy và cuồng vọng sô vanh nước lớn
khiến họ không cho VN đi con đường đó. Việt Nam càng nhún nhường thì họ càng
lấn tới. Đó chính là bàn tay ma quỷ của Trung Quốc, là điều người Việt từ nhà
cầm quyền đến dân thường phải nhận thức và có hành động thống nhất.
Trong
phạm vi bài viết này, tôi đi sâu phân tích về sự lũng lọan của Trung Quóc trong
lĩnh vực đấu thầu, đầu tư ở Việt Nam.
Hiện
nay có hàng trăm nhà thầu Trung Quốc đang thực hiện các dự án ở Việt Nam, hầu
hết đều bê trễ thời gian thi công, và đội vốn, chất lượng kém, ô nhiễm môi
trường để lại các hậu quả rất nặng nề không chỉ trên phương diện kinh tế! Nếu
rà soát có hệ thống và khách quan có thể trả lời câu hỏi đó là sự "thông
đồng" có hệ thống hay chỉ là sự "ngẫu nhiên đáng ngờ" của từng
dự án riêng lẻ, nên làm rõ bản chất của từng vụ tham nhũng này.
Giá
mời thầu của các công ty thuộc các nền công nghiệp tiên tiến thường cao khi
khởi đầu, một rào cản quan trọng cho một nước nghèo. Hơn nữa, luật pháp các
nước tiên tiến (Châu Âu, Mỹ, Nhật) phạt rất nặng các hành vi hối lộ, tham nhũng
không cho phép nhà thầu các nước này thực hiện các thủ đoạn gian lận và mua
chuộc giám sát, quản lý vốn. Thực ra, giá thầu với Trung Quốc đội lên cao hơn
các nguồn khác, và Trung Quốc biết những người đã “há miệng mắc quai” rồi, tiếp
tục mắc thêm nợ nữa, kèm theo là những ràng buộc khó gỡ đối với họ.
Nhìn
lại lịch sử, chỉ nói riêng ngành xi măng trong thập niên 1990, nước ta đã từng
phải trả giá cho phong trào phát triển xi măng lò đứng, công nghệ lạc hậu của
Trung Quốc sau thời gian ngắn hoạt động đã bị khai tử, làm lãng phí rất lớn
tiền của và gây ô nhiễm môi trường ở nhiều địa phương. Bài học đắt gía nói trên
vẫn chưa học thuộc, lại “mắc bẫy” ngay vào một sai lầm mới, đó là phong trào
làm xi măng lò quay và cũng với thiết bị và công nghệ lạc hậu của Trung Quốc
v.v...
Mánh
khóe nhà thầu Trung Quốc: Bỏ giá dự thầu kiểu láu cá.
Hạng
mục nào nhắm làm không được thì nhà thầu bỏ giá thấp hẳn, hạng mục ngon xơi thì
giá tăng vọt, nhưng tổng giá bỏ thầu vẫn thấp nhất. Phải công nhận là quy định
chấm thầu của ta còn lỏng lẻo. Mặc dù các dự án quóc tế có thuê tư vấn nhưng
khi tư vấn có cơ sở để bác nhà thầu Trung Quốc nhưng chủ đầu tư do tay đã nhúng
chàm vẫn có “cách lách” để chấm cho đạt! Khi đàm phán hợp đồng, nhà thầu Trung
Quốc nhìn nhận đã bỏ giá quá thấp cho hạng mục đó, nên họ hứa sẽ chuyển chi phí
từ các hạng mục khác để đắp qua hạng mục bỏ giá thấp. Cuối cùng “vỡ trận”, khi
được nhắc nhở về lời hứa “đắp qua”, nhà thầu Trung Quốc bảo không có chi phí đế
đắp qua, tìm đủ lý do biện minh rồi bỏ luôn hạng mục đó. Trong khi họ ăn lời ở
các hạng mục ngon xơi đã bỏ giá cao. Nếu phải tổ chức đấu thầu lại, tốn rất
nhiều thời gian và chi phí điều hành, rồi cũng phải trả chi phí cao để thi công
như dự toán ban đầu.
Sử
dụng công nghệ kém cỏi và vật tư thiết bị chất lượng thấp.
Trong
một dự án, Tư vấn khuyến cáo với điều kiện đặt ra, thì cần thiết bị như thế
nào. Nhưng hồ sơ mời thầu thiếu chặt chẽ, không ràng buộc cụ thể những điều
kiện bắt buộc phải thi hành. Cho nên nhà thầu có quyền không nghe khuyến cáo
của Tư vấn, dùng thiết bị và công nghệ kém cỏi nhằm giảm chi phí (trước tiên là
giảm giá dự thầu). Hậu quả là thiết bị hỏng hóc, tiến độ chậm, nhưng họ viện
dẫn đủ lý do để bào chữa, hạng mục đã lắp đặt xong có nên tháo dỡ! Lại phải tổ
chức đấu thầu lại cho hạng mục đó rất tốn kém.
Lỗi
chính là tại chủ đầu tư nêu đầu bài "hở" và kiểm tra, giám sát kém
Trước
hết, các chủ đầu tư đã không làm kiểu đấu thầu "2 phong bì", phong bì
kỹ thuật và phong bì giá, riêng rẽ. Cần phải lựa chọn các nhà thầu đạt tiêu
chuẩn kỹ thuật, công nghệ cao. Đây cũng có thể là khâu chủ đầu tư sơ hở từ đầu.
Chẳng hạn, đã nêu yêu cầu kỹ thuật công nghệ không rõ ví dụ nêu "thiết bị
từ các hãng G7", nhưng sau này họ lại lắp đặt các thiết bị G7 được sản
xuất tại nước khác, chất lượng kém hơn hẳn, như kiểu xe nhập khẩu và xe lắp ráp
chất lượng khác nhau.
Thành
ra, dù nhà thầu kém, kể cả một số nhà thầu Trung Quốc chưa có nhiều kinh nghiệm
vẫn "qua mặt" được các nhà cung cấp thiết bị chính hãng! Đến khi xét
thầu theo giá thì nhà thầu Trung Quốc có lợi thế do biết cách bỏ thầu chắc
thắng.
Nguyên
nhân chính để xảy ra và tồn tại tình trạng Trung Quốc luôn thắng thầu là nhà
thầu biết cách thực hiện các công đoạn, hạng mục sai với thiết kế và hợp đồng,
nhưng có thể mua chuộc giám sát để tìm ra các lỗi phát sinh ngụy tạo để tăng
vốn từ chủ đầu tư. Nói cách khác là nhà thầu Trung Quốc biết và được sử dụng
điều kiện tồn tại tham nhũng và sử dụng vốn vô trách nhiệm từ chủ đầu tư Việt
Nam. Do đó, giải pháp để ngăn chặn nhà thầu Trung Quốc là phải sửa lỗi từ bên
trong tức các chủ đầu tư Việt Nam – đương nhiên không phải đơn thuần chỉ trên
phương diện kinh tế.
Giải
pháp
1.Cần
phải có luật lệ rõ ràng là nếu một công ty nước ngoài nào đã vi phạm đấu thầu
trong một dự án thì công ty đó sẽ bị loại hoàn toàn trong các cuộc đấu thầu
khác khắp trong nước bất kể ngành gì. Ngoài ra, quốc gia của công ty đó
phải chịu một điểm xấu trong lịch trình đấu thầu của tất cả các dự án khác.
Điều này, nếu chúng ta nêu rõ ràng và minh bạch thì không ai có thể
kêu ca gì cả.
Cũng
cần phải có các luật lệ rõ rằng về quỹ tiền thế chân (Bonds). Thứ nhất quỹ này
phải do một cơ quan độc lập đứng ngoài dự án giữ để tránh tiền bị thất
thoát. Thứ hai, cần phải có các loại tiền thế chân khác nhau.
Chẳng hạn, hầu như tất cả các công việc xây dựng công ở Mỹ đều được thực hiện
bởi các công ty tư nhân. Công việc này thường được trao cho nhà thầu đáp ứng
thấp nhất thông qua hệ thống giá thầu niêm phong cạnh tranh. Trái phiếu chắc
(Surety Bonds) đóng một vai trò quan trọng cho hệ thống hoạt động. Ở Mỹ, có
3 loại trái phiếu chắc:
-
Trái phiếu đấu thầu (Bid Bond) có mục đích để loại bỏ các nhà thầu yếu
kém (phù phiếm) ra khỏi quá trình đấu thầu bằng cách đảm bảo rằng nhà thầu
thành công sẽ tham gia vào hợp đồng và sẽ làm đúng theo tiêu chuẩn và nộp
trái phiếu thanh toán (Payment Bond). Nếu người thầu trả giá thấp nhất không
thực hiện được các cam kết này, chủ sở hữu sẽ được bảo vệ tối đa bằng số tiền
của trái phiếu đấu thầu, thường trị giá của trái phiếu đấu thầu (Bid Bond)
là sự khác biệt giữa giá thầu thấp và giá thầu đáp ứng cao kế
tiếp.
-
Trái phiếu hiệu suất (Performance Bond) đảm bảo nhà thầu sẽ thực hiện hợp đồng
theo các điều khoản và điều kiện đã đặt ra, theo giá thỏa thuận và trong thời
gian đã được hoạch định.
-
Trái phiếu thanh toán (Payment Bond) nhằm bảo vệ những người lao động, nhà
cung cấp vật liệu và nhà thầu phụ nếu xảy ra việc nhà thầu không thanh
toán tiền nong. Vì các khoản thế chấp không thể được đặt ra cho tài sản công
cộng (chẳng hạn mình không thể đem con đường sẽ xây ra làm thế chân),
trái phiếu thanh toán là cách bảo vệ duy nhất mà những người này được thanh
toán cho hàng hóa và dịch vụ mà họ cung cấp cho dự án.
Chúng
ta có thể viện nhiều lý do để các công ty nước ngoài phải đóng cả 3 loại tiền
thế chân này trong khi các công ty trong nước đóng ít hơn để giúp các công ty
nội địa.
2.
Hồ sơ mời thầu cần chặt chẽ về kỹ thuật, quy trình, nêu rõ mục tiêu phải đạt,
tiêu chí, loại thiết bị/công nghệ tầm G7 (cho phép tương đương). Cần tính
toán dòng tiền đầu tư, cộng vận hành bảo dưỡng trong lâu dài. Cần so sánh: giá
đầu tư có thể cao ban đầu nhưng về lâu về dài tổng chi phí sẽ thấp, so với giá
đầu tư thấp nhưng sau đó có nhiều “hidden cost” (chi phí che dấu) nếu tính
đúng, tính đủ thì tổng giá thành rất cao nhưng không được thể hiện trên giấy
tờ.
3.Vấn
đề hợp đồng phải có từng giai đoạn và trong từng giai đoạn phải có sản phẩm
(output) có thể kiểm tra về số lượng và chất lượng. Nhà thầu phải mua hoặc đóng
bảo hiểm để sửa chữa các sai phạm. Nếu không làm đúng thì phải dừng ngay và bên
thầu phải sửa chữa hoặc bị loại trừ. Trong trường hợp bên VN không có khả năng
kiểm tra thì thuê kiểm tra nước ngoài (tức là tư vấn). Ở nước ngoài, nếu có
chuyện băn khoăn 50/50 về quy định, quy trình, cơ sở khoa học... giữa việc chấp
nhận và bác bỏ vấn đề gây quan ngại thì chủ đầu tư nghe theo khuyến cáo của Tư
vấn, vì Tư vấn có tính độc lập nhưng vẫn muốn bảo vệ chủ đầu tư.
4.
Những người có trách nhiệm được nhà nước giao phó trong quản lý vốn, giám sát,…
không chỉ cần có cái tâm và cái tầm mà phải được nghiêm trị khi vi phạm hối lộ,
tham nhũng.
5.
Giải pháp để nhà thầu Trung Quốc bảo đảm hay tăng chất lượng và giảm chi phí
công trình là phải sửa lỗi từ bên trong tức các chủ đầu tư Việt Nam. Sự tiếp
tục thắng thầu của các nhà thầu Trung Quốc ngày càng tăng hình như là thứ mà
mang tính bao trùm lên tất cả là vấn đề lỗi thể chế chính trị xã hội chưa có
dấu hiệu đổi mới, chưa nhìn nhận thấu đáo bàn tay ma quỷ can thiệp và lũng đoạn
của Trung Quốc vào nội bộ nước ta như thế nào?
Lời
kết
Chính
giới và giới trí thức ở Mỹ, Úc, New Zealand và nhiều quốc gia khác lên tiếng
gay gắt vạch trần sự lũng đoạn nghiêm trọng của Trung Quốc từ hàng thập kỷ nay
vào nội bộ nước họ dưới mọi hình thức của quyền lực mềm và ăn cắp “know how”,
quyền sở hữu trí tuệ gây ra nhiều hệ lụy khác rất nghiêm trọng.
Chúng
ta không từ chối đầu tư và hoạt động kinh tế của Trung Quốc tại Việt Nam nhưng
không chấp nhận những nhà đầu tư không chỉ thiếu năng lực, trình độ mà điều
quan trọng là muốn gây hạị cho VN, thậm chí điều này đậm nét hơn là "kiếm
chác“! Dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông dùng vốn vay và nhà thầu Trung Quốc,
liên tục đội vốn, hoãn ngày khánh thành, nay vẫn trơ gan như một tượng đài
“tiền mất, tật mang” giữa Thủ đô.
Ở
Việt Nam, chuyện cũ chưa xong lại thêm mối lo mới về việc Việt Nam cho phép làm
thí điểm khu kinh tế Vần Đồn có yếu tố Trung Quốc làm người dân càng nặng trĩu
khôn nguôi, nỗi âu lo về bàn tay ma quỷ của Tầu đã thò vào mọi lĩnh vực của
mảnh đất hình chữ S thân thương này. Giữa lúc này, Trung Quốc lại đang leo
thang trên Biển Đông bằng hành động kiểm soát khai thác tài nguyên biển, và lời
lẽ hăm dọa chiến tranh trực tiếp uy hiếp nước ta.
Phải
cải cách thể chế chính trị và xã hội, dựa trên bài học rất thành công của chống
dịch covid 19 để lấy lại lòng tin của nhân dân, dựa vào sức mạnh của cả dân tộc
và sức mạnh của thời đại để bảo vệ chủ quyền quốc gia và phát triển bền vững
của đất nước.
Xin
có mấy câu thơ để thay cho lời kết của bài viết này:
“Ông
Lớn“ muốn cả thiên hà
Lòng
tham vô đáy, nghịch tà vô biên
Ngàn
năm chuyện ấy còn nguyên
Có
chơi thì nhớ đừng quên điều này:
Rõ
ràng, minh bạch, thẳng ngay
Đừng
vì tham để đến ngày lại lo
Bàn
tay “ma quỷ” lắm trò
Gạc
Ma còn đấy, nhớ cho, không thừa.