Thiện Tùng
28/5/2020
Người ta thường nói “Cha sanh, Mẹ đẻ”,
“sanh đẻ đạo đồng”. Biết rằng sanh dễ hơn đẻ, nhưng người sanh còn phải vất
vả cưu mang người có thai và nuôi nấn,
chăm sóc con đến khi nó khôn lớn. Bởi vậy mới có câu: “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra; Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo
con”. Thế
mà, vào những ngày khác nhau, cứ đến tháng Ba hoặc tháng Năm, khắp toàn cầu
người ta thường tổ chức lễ hội “vinh
danh người mẹ” mà không tổ chức lễ hội “vinh danh người cha”?! - sao kỳ lạ và bất công như thế?
Việt Nam ta còn kỳ lạ,
bất công hơn: Cũng ngoài không tính gì đến người cha, cứ vào những tháng nầy
không tổ chức “vinh danh người mẹ” nói chung như người ta mà chỉ vinh danh những bà “Mẹ Việt Nam Anh hùng”.
II.- DANH HIỆU “MẸ VN ANH HÙNG”
Hồi ức về chồng, về con luôn hiện hữu trong tâm trí mẹ Lại Thị Bướng |
1/ Hoàn cảnh ra đời
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia,
Tháng 5/1994, Tổng cục Chinh trị đề nghi,
Ban Bí thư triệu tập, tổng Bí thư Đỗ Mười chủ trì cuộc họp Bàn về danh hiệu và chính sách đãi ngộ thỏa đáng cả
về tinh thần và vật chất đối với một đối tượng đặc biệt – đó là những người mẹ
đã hiến dâng cho Tổ quốc bản thân và những người thân ưu tú.
Sau cuộc họp nói trên, cuộc họp liên tịch gồm Ban Bí thư, Chính
phủ, Ủy ban thường vụ Quốc Hội, Bộ
Thương binh-Xã hội, Bộ Tài Chính để nghe Tổng Cục Chính trị thuộc Bộ Quốc phòng
trình bày về dự thảo Tiêu chuẩn / Danh hiệu / Chế độ được hưởng đối với những
bà mẹ có người thân tử trận.
+ Danh hiệu: “Mẹ Việt Nam Anh Hùng”.
+Tiêu chuẩn:
- Có 2 con trở lên
là liệt sĩ;-
- Có 2 con mà 1 con là liệt
sĩ, 1 con là thương binh với thương tật từ 81% trở lên.
- Chỉ có 1 con mà người đó là liệt sĩ;
- Có 1 con là liệt sĩ, chồng hoặc bản thân là
liệt sĩ.
+ Chế độ được hưởng: Được cấp tiền hàng tháng với định
mức như nhau.
Ngày 10/9/1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Sắc lệnh công bố Pháp
lệnh Quy định Danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”.
Ngày 20/10/1994, Chính phủ ban hành Nghị định 167-CP thi
hành Pháp lệnh Quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước "Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng".
2/ Thống kê, đãi ngộ
Từ khi nghị định 167-CP của Chính phủ có hiệu lực vào tháng
12/1994, hàng năm số lượng “Mẹ Việt nam Anh hùng” tăng lên không
ngừng. Theo thống kê được phát trên HTV9, đến hết năm 2018, cả nước có 127.000
mẹ nhận danh hiệu MVNAH và hưởng chế độ
đãi ngộ bằng tiền hàng tháng (xem như lãnh lương).
Về chế độ đãi ngộ làm được như thế là
tốt rồi. Nhưng về danh hiệu còn có lời ra tiếng vào: Người ra tiền tuyến chết còn phân làm 3 loại tử sĩ, liệt sĩ, anh hùng
liệt sĩ, còn những bà mẹ chỉ ở phía sau (ở nhà) mà phong “anh
hùng” liệu có quá đáng không? – phong danh hiệu “Bà
mẹ đau khổ” là vừa phải, thích hợp hơn. Và vì sao
có danh hiệu “Mẹ Việt nam Anh hùng” mà không
có danh hiệu “Cha Việt nam Anh hùng”?.
*
Khi Nhà nước sắc phong danh hiệu “Mẹ Việt nam Anh hùng”, tôi lại nghĩ về danh hiệu “Mẹ Chiến sĩ ” do chánh quyền Cách mạng
phong trong thời chiến.
II.- DANH HIỆU “ MẸ CHIẾN SĨ ”
1/ Hoàn cảnh ra đời
Trong 2 cuộc kháng chiến 30 năm (1945-1975) chống xâm lược
Pháp và can thiệp Mỹ, chiến trường luôn bị chia cắt, công việc Hậu cần như tiếp
lương, tải đạn, điều trị, chăm sóc thương bịnh binh khó khăn vô cùng. Chính vì
vậy, phải vận động nhân dân tham gia làm hậu cần để chia sớt gánh nặng. Những
người phụ nữ độc thân, góa bụa ở trong vùng căn cứ địa Cách mạng, ngoài rảnh tay
rảnh chân, họ thích tham gia hoạt động xã hội cho đỡ trống trải cô đơn, tự nguyện
làm việc không lương, gánh vác mọi nặng nhọc ở hậu phương như vận động nhân dân
tiếp lương, tải đạn, chăm sóc thương bịnh binh, thu gom xác chết cán bộ chiến
sĩ còn bỏ lại chiến trường về chôn cất..v.v… Những bà nhiệt tình, tiêu biểu nhứt
trong số mới được Cách mạng xét phong cho danh hiệu “Mẹ chiến sĩ – bất kỳ ai tham gia kháng chiến đều là con của các bà, được các
bà có trách nhiệm giúp đỡ, cưu mang về mọi mặt.
2/ Đời cô đọc, trở về với cô độc
Trong chuyến đi lấy cốt đồng đội, tôi có dịp trao đổi với
2 “Mẹ chiến sĩ” – mẹ Hai và mẹ Tư ở xã Tân Thành, huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng
tháp (nay) mới hiểu sâu hơn tấm lòng và tâm trạng của họ:
<< Hồi tụi con giao
có ghi rõ tên họ, quê quán kèm theo từng cái xác kia mà?! – tôi nói.
Chiến tranh không đơn
giản chút nào – mẹ Tư nói: Trong số hơn trăm cái mộ cán bộ chiến sĩ
chôn ở vuông đất của mẹ, có khoảng 70 cái mộ có tên, khoảng 30 mộ không tên. Số
không tên phần lớn do mẹ tự đi gom nhặt khắp nơi đem về. Nói chung chôn có sơ
đồ, có bia mộ bằng ván cây. Năm 1971, người phụ trách Thương binh Liệt sĩ xã
nầy bị bắt, mất hết hồ sơ. Đáng nói hơn, mỗi lần càn, khi đi qua nghĩa trang -
kể cả những cái mộ chôn ở nền trường học, bọn trời đánh thánh đâm đập phá bia
mộ. Đập đi đập lại nhiều lần riết hết nhớ nổi. Bí quá mới nghĩ ra, mẹ nhờ anh
em vẽ lại sơ đồ và viết tên họ, quê quán những cái còn biết bỏ vào chai, nét
nút kỹ chôn ở đầu mộ, đóng cọc làm dấu. Sau 30/4/1975, căn cứ vào đó lập lại
bia mộ. Số có tên tuột xuống chỉ còn một nửa trong tổng số (50%).
Những cái mộ có tên, tập
thể hoặc gia đình lần lượt đến bốc cốt đem về. Hơn 50 mộ không tên không một ai
hỏi han gì, suốt mười mấy năm, mẹ và bà con ở đây chăm sóc. Đối đế, mẹ và cháu
Bá đây báo cáo về trên. Ngày Thương binh Liệt sĩ 27/7 năm rồi, Tỉnh cử một đoàn
người đến hốt hết về Nghĩa trang Cao Lãnh. Càng nghĩ càng thương cho gia đình
và bản thân những người vô danh - sinh ra, lớn lên, theo kháng chiến có danh,
chết lại vô danh! Đôi khi mẹ cũng tự trách mình, chỉ có cái bia mộ mà không sớm
nghĩ ra cách bảo vệ, để cho số vô danh tăng lên vô lý quá!...
Chuyện đã vậy - tôi an
ủi: Thôi đi má ơi, có buồn đau, tự trách
cũng không thể khác. Xét ra, cũng chẳng mấy ai trong điều kiện như vậy làm được
những điều kỳ diệu như mẹ?.
Nảy giờ ngồi làm thinh,
đột nhiên anh Bá, trưởng Ban Xã hội thương binh xã Tân Thành ứng khẩu hơi lạc
đề: “Có điều tôi chưa tự giải đáp, phần lớn “Mẹ Chiến sĩ” là những người độc
thân, góa bụa?.
Như bị thọt lét, mẹ Hai
gượng cười, lý giải về câu nói của Bá: Mầy không hiểu cũng phải, vì mầy
đâu có độc thân và góa bụa. Mầy quan sát như vậy là kỹ, nhưng mầy có biết đâu,
phàm là phụ nữ, ai cũng sợ cô đơn lúc tuổi già. Những phụ nữ độc thân, góa bụa
cầm chắc lúc tuổi già sẽ phải sống cô độc, không người nương tựa. Họ thích tham
gia hoạt động xã hội không phải vì danh vọng, bạc tiền mà mưu cầu tìm cái mình
đang thiếu để lấp vào khoảng trống ấy. Họ khao khát thiên chức làm mẹ dầu phải
hao tốn, cực khổ. Tình thương của họ bao la biển trời và chia đồng cho những ai
gọi họ bằng mẹ - gọi bằng Mẹ thích hơn gọi bằng Dì, và gọi bằng Dì thích hơn
các tên gọi khác - Dì như Mẹ? Cũng thấy, cũng biết chớ không đâu: trong những
người gọi tao bằng mẹ, một số gọi thế cho vơi bớt nỗi nhớ mẹ ruột mình - mưu
cầu lợi ích tinh thần; một số không phải ít khác gọi thế để nhờ cái nầy, xin
cái kia, mượn cái nọ... - mưu cầu lợi ích vật chất. Dựa vào mối quan hệ mẹ con
như ruột thịt ấy, những người lãnh đạo cách mạng sử dụng những người “Mẹ Chiến
sĩ” như lực lượng hậu cần mà không phải tốn phí.
Trông có vẻ ngạc nhiên về
những gì má Hai vừa nói, anh Bá gợi suy: Má kết luận như thế có vội
vàng và quá đáng không?
Tao cũng chẳng biết nữa -
má Hai nói tiếp: Có điều từ sau Giải phóng (30/4/1975) đến giờ, danh
hiệu “Mẹ Chiến sĩ” hay cụ thể hơn những người Mẹ Chiến sĩ đã đi vào quên lãng,
đến nay chẳng ai còn thèm nhắc đến nó nữa. Và những ai gọi tao bằng mẹ thuở
nào, hiện giờ đang ở đâu, sống chết thế nào tao cũng không được biết! Chỉ biết đời
cô độc trở về với cô độc?! Nhưng dầu sao tao cũng cám ơn tụi nó, nhờ chúng mà
có một thời tao đỡ trống trải cô đơn. Dầu không muốn cũng phải thừa nhận một
thực tế: mối quan hệ Mẹ và Con Chiến sĩ chẳng qua là sự hợp tan trò dâu biển -
khi thấy còn cần thì hợp, không cần thì tan? Đúng ra, những người độc thân và
góa bụa, như tao chẳng hạn, còn cần hợp quá đấy chớ, nhưng đã hợp thì không thể
đơn phương?
Đời cô độc
trở về với cô độc! |
Anh Bá lại thắc mắc: “Mẹ
Chiến sĩ” hành động tự giác như một cán bộ Hậu cần, dài hạn, dày
công nuôi dưỡng, chăm sóc cán bộ, chiến sĩ, thương binh, mả mồ liệt sĩ; còn “Mẹ
Việt nam Anh hùng” chưa hẳn tự giác, chỉ là người có chồng có con theo cách
mạng chẳng may hy sinh, miễn có người chết đủ số theo quy định là được phong
danh hiệu. Trong hiện tại “Mẹ Việt nam Anh hùng” được hưởng chế độ theo chính
sách, còn “Mẹ Chiến sĩ” thì chẳng được hưởng gì và bị lãng quên - Sao lại bất
công như thế?! Điều đáng nói nữa: Liệt sĩ hay tử sĩ gì đó đều phải có cha có
mẹ, cớ sao chỉ có “Mẹ Việt nam Anh hùng” mà không có “Cha Việt nam Anh hùng”? -
Cũng lại là một sự bất công?!
Anh thắc mắc như thế là có cơ sở - tôi nói: “Anh
Bá nhận ra những điều bất công đó chứng tỏ anh là người có đủ tiêu chuẩn làm Xã
hội Thương binh. Nhưng chỗ anh nói không phải ở đây mà ở cấp lãnh đạo của anh”?
Có lẽ nhân dịp, mẹ Tư
cũng nói đôi điều cho vơi bớt nỗi lòng: Hồi còn chiến tranh khó khăn,
nguy hiểm vậy chớ vui, nhà tao hết đứa nầy lui đứa kia tới như thoi đưa, nhưng
sau Giải phóng chẳng thấy một meo nào lai vãng. Những thằng sống không tới, tao
lấy việc chăm sóc mộ mấy thằng chết làm vui. Nhưng ngày lại ngày, những đứa
chết có danh cũng lần lượt theo tập thể hoặc gia đình ra đi! Cũng không sao,
tao cũng còn hơn 50 cái mộ vô danh để sưởi ấm. Thế rồi năm ngoái, Tỉnh đến hốt hết
số vô danh nầy về Nghĩa trang Cao Lãnh. Vậy là hết, một mình tao trơ trọi với
một cảnh tượng não lòng: Bên nầy là nhà tao, bên kia là mộ thằng “thằng lính
Ngụy”, chính giữa là nền cũ của bãi tha ma với những bia mộ, những mảnh nylon
gói xác nhầu nát vô dụng vứt bừa ra đó. Riết thành thói quen, khi buồn tao cũng
sang bên ấy đốt nhang cấm trên mộ “thằng lính Ngụy” bất hạnh ấy. Suy cho cùng,
thằng bị gọi là Ngụy ấy cũng chỉ là nạn nhân của cuộc chiến, bị người ta lừa
gạt hay bắt buộc xua ra trận chết bỏ thây. Đó là chưa nói, chính tao chớ không
ai khác, lợi dụng cái xác nó qua mặt xếp bót để tìm xác mấy thằng khác phe kia.
Để lát nữa tụi bây qua bên đó xem, tao đã trồng xong cả ngàn cây Bạch Đàn trên
bãi tha ma ấy, mỗi cây như một mũi kim vá lại vếch rách lòng tao >>.
**
Ngày 27/7, tôi đi viếng
nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Tiền Giang. Có một bà già đang lủi thủi đốt nhang cấm
trên từng ngôi mộ chiến sĩ, không đếm xỉa gì đến đoàn của Tỉnh Ủy tỉnh Tiềng
Giang đang tập trung nhang lễ trên tượng đài, thấy lạ, tôi đến tìm hiểu bà ấy
là ai mà “mổi lỗ mỗi tỉa” như thế. Không ngờ, đó là mẹ “Mẹ chiến sĩ” với tên
thường gọi là má Tám. Nhìn tôi bà nói: “Mấy
thằng sống bay nhảy khắp nơi không biết đâu mà tìm, nhân ngày thương binh liệt
sĩ, mẹ đến đốt nhang cho mấy thằng chết. Ốp nhang còn lại nè, tao mệt quá rồi,
mầy thay tao đốt cấm cho tụi nó, tao về kẽo nắng lên mệt lắm!”. Tôi cầm ốp
nhang theo bà ra cổng đón xe gởi bà về
huyện Cai Lậy.
Tâm trạng của ba mẹ Hai,
Tư, Tám tác động vào tâm tưởng tôi. Dịp
Hội Văn nghệ (Văn học Nghệ thuật) phát động sáng tác vọng cổ về thương binh
liệt sĩ, moi từ ký ức, tôi viết 6 câu vọng cổ với tựa đề “Nỗi lòng người mẹ” dự thi nhưng không được ứng thí, theo Ban giám khảo: Bài viết của anh có thể đạt giải, nhưng
nhứt là câu 6 “găng” quá nên không thể đưa bài vào dự thi”. Nội dung câu 6 như sau:
Câu 6: Các con ơi! Có người
mẹ nào chẳng xót đau khi thấy trong đám con mình đứa thì đi rồi đi mãi; đứa thì
tật nguyền sống vời chuổi ngày dầu dãi nắng sương; đứa thì bị cầm giam trong 4
bức tường bởi can tội chi chi đó; đứa thì tham giàu phụ khó, chẳng còn nghĩ chi
đến tình nghĩa riêng chung mà bấy lâu chúng ta đã dày công xây đắp vun bồi…Thôi,
tình tình nghĩa mẹ con ta bao nhiêu đó cũng đủ rồi… Giả biệt các con,
quê nghèo mẹ trở lại. Xin van vái với đất trời hãy phò hộ cho những đứa con
tôi. -/-