Thiếu tướng Lê Mã Lương
|
(VTC News) -
Thiếu tướng Lê Mã Lương khẳng định, việc Trung Quốc cưỡng chiếm trái phép quần
đảo Hoàng Sa của Việt Nam là hành vi xâm phạm thô bạo vào chủ quyền lãnh thổ
của Việt Nam nên dù bất cứ giá nào, Việt Nam vẫn kiên trì thực hiện cuộc đấu
tranh để giành lại.
44 năm trước, ngày 19/1/1974, Trung Quốc nổ súng tấn
công và chiếm đóng trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
VTC News đã có cuộc phỏng vấn Thiếu tướng Lê Mã Lương, Anh hùng
Lực lượng vũ trang Nhân dân, nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam
để cùng nhìn nhận, đánh giá lại sự kiện này cũng như những bài học lịch sử mà
Việt Nam rút ra.
“Âm mưu thâm độc từ lâu”
- Là một tướng lĩnh quân đội và cũng là một người
nghiên cứu về lịch sử, ông đánh giá thế nào về sự kiện ngày 19/1/1974, ngày mà
quân đội Trung Quốc đã tấn công và chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam
khi đó đang do chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH) quản lý?
Rõ ràng đây là một sự kiện rất đáng buồn. Buồn vì
chúng ta để mất phần lãnh thổ của mình. Nếu như khi đó chúng ta thể hiện được
sự tỉnh táo và quyết đoán thì nó sẽ không xảy ra sự mất mát rất lớn ấy.
Trước hết, phải nói sự kiện ngày 19/1/1974 là nằm
trong một chuỗi sự kiện trong âm mưu của Trung Quốc chứ không phải là hành động
đơn lẻ. Đây là mưu đồ thâm hiểm của Trung Quốc đã có từ rất lâu rồi. Âm mưu này
đã có từ những năm 50 của thế kỷ trước và đây là một ý đồ nhất quán và lâu dài.
Phải nói đó là một vấn đề nằm trong chiến lược bành
trướng của Trung Quốc, họ muốn khống chế ta, khống chế Biển Đông. Do đó, đây
không phải là sự ngẫu nhiên hoặc tranh thủ lúc ta đang đánh nhau để họ làm cái
việc đã rồi theo kiểu “thừa nước đục thả câu” như thế.
Trung Quốc đã có âm mưu từ lâu, tư tưởng của họ là
nhất quán. Sự nhất quán đó đã có tới cả nửa thế kỷ rồi chứ không phải là mới
hình thành đâu.
Nếu nhìn lại các sự kiện lịch sử, chúng ta sẽ thấy
ngay từ năm 1946, khi ta đang phải đương đầu với sự xâm lược trở lại của thực
dân Pháp thì lúc này Trung Quốc (thời Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch)
đã tranh thủ chiếm luôn đảo Phú Lâm (thuộc quần đảo Hoàng Sa) và đảo Ba Bình
(thuộc quần đảo Trường Sa).
Lần thứ hai vào năm 1956, Trung Quốc chiếm gần như
toàn bộ phần phía đông của quần đảo Hoàng Sa. Đến năm 1959, lần thứ ba Trung
Quốc mang quân chiếm nốt phần phía tây của quần đảo Hoàng Sa.
Lần thứ tư là năm 1974, lợi dụng tình thế Mỹ rút hạm
đội 7 ra khỏi vùng biển của Việt Nam thì phía Trung Quốc mang quân tấn công
phần phía tây quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 14/3/1988, lúc ấy quân đội chúng ta vẫn đang làm
nhiệm vụ thời chiến ở biên giới Tây Nam và phía bắc. Trung Quốc đã đưa quân vào
chiếm đảo Gạc Ma ở quần đảo Trường Sa.
Vì vậy cho nên khi nhận xét đánh giá về vấn đề này thì
phải thấy được nguyên nhân sâu xa của nó.
Trong sự kiện Trung Quốc tấn công và chiếm đóng trái
phép đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974 và sau này là sự kiện Trung Quốc tấn
công chiếm đóng trái phép đảo Gạc Ma của Việt Nam năm 1988 cho thấy chúng ta đã
sơ suất, thiếu sự đề phòng.
“Sai lầm nghiêm trọng về chiến thuật”
- Sau này, Đại tá phi công Nguyễn Thành Trung tiết lộ
rằng, việc để mất Hoàng Sa vào tay Trung Quốc năm 1974 còn có trách nhiệm của
phía chính quyền VNCH khi đó đã thiếu quyết đoán. Bởi theo Đại tá Trung, khi đó
VNCH vẫn có thể điều không quân từ Đà Nẵng ra chiến đấu đề giành lại đảo. Ý
kiến của ông về vấn đề này như thế nào?
Việc không cho máy bay từ Đà Nẵng bay ra Hoàng Sa để
tác chiến là một sai lầm nghiêm trọng về mặt chiến thuật khi đó của chính quyền
VNCH. Phải nói là để mất Hoàng Sa là một sai lầm có tính lịch sử.
Bởi vì lúc cần sự cố gắng để giữ cho được lãnh thổ,
lãnh hải của mình thì lại không dám quyết đoán để đưa ra những quyết định đúng
đắn. Nếu mà quyết đoán thì chúng ta không bị mất Hoàng Sa vào tay Trung Quốc.
Khi ấy, quân đội Trung Quốc chỉ có MiG-21 và họ không
thể bay nổi từ lục địa để ra Hoàng Sa tác chiến, kể cả khi máy bay MiG-21 của
Trung Quốc có xuất phát từ đảo Hải Nam để bay ra Hoàng Sa thì cũng không có đủ
nhiên liệu để về và sẽ rơi xuống biển.
Không chỉ chính quyền VNCH mà chính quyền Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa khi đó cũng có những sơ suất. Sơ suất đó là chúng ta vì hoàn cảnh
khách quan, vì quá mải mê cho công cuộc chiến đấu để giải phóng miền Nam và
thêm vào đó cũng có lúc chúng ta quá tin bạn bè, gửi gắm vào bạn bè mà không
thấy được đằng sau là “ông bạn lớn” đã có một ý đồ rất lớn và thâm hiểm như
thế.
Vì thế cho nên khi sự việc xảy ra thì chúng ta bị
những bất ngờ. Nếu khi đó ta không chủ quan, đừng quá tin tưởng vào Trung Quốc,
ta tìm hiểu tư tưởng chiến lược của Trung Quốc thì ta sẽ có những ứng phó phù
hợp hơn.
Tàu cá có vũ trang của Trung Quốc khiêu khích chiến hạm của hải quân VNCH ở Hoàng Sa tháng 1/1974. (Ảnh tư liệu) |
Nếu ta không chủ quan, thì khi đó quân đội nhân dân
Việt Nam có thể bằng mọi giá sẽ chọn được thời cơ thích hợp, chỉ cần khoảng một
tuần lễ là có thể lấy lại Hoàng Sa. Tỉnh táo thì không đến mức như vậy.
Nên có thể nói, việc để mất quần đảo Hoàng Sa
là do Việt Nam khi đó chủ quan và dễ tin Trung Quốc.
“Có lỗi với tiền nhân”
- Trong một số hội thảo về lịch sử, về Biển Đông cũng
như trả lời trên báo chí, Thiếu tướng nói sự kiện để mất Hoàng Sa và sau này là
một số đảo ở Trường Sa vào tay quân Trung Quốc đã khiến những người lính như
ông khi đó và cả về sau này luôn cảm thấy “có lỗi với tiền nhân”...
Không phải bây giờ, mà ngay từ hàng chục năm trước,
tôi cũng đã có dự cảm về vấn đề Biển Đông sẽ là vấn đề mà Trung Quốc không dễ
“buông tha” rồi.
Sau này, anh Nguyễn Thành Trung cho biết tại thời điểm
năm 1974, nếu như phía chính quyền VNCH cho phép máy bay từ Đà Nẵng bay ra
Hoàng Sa để phản công thì vẫn có thể giữ hoặc chiếm lại được đảo. Tôi tin điều
đó.
Không chỉ sự kiện ở Hoàng Sa năm 1974 mà ngay
cả sự kiện Trung Quốc tấn công đảo Gạc Ma của Việt Nam năm 1988, nếu chúng ta
quyết đoán thì khi đó vẫn có thể giữ được đảo.
Vì khi đó máy bay của chúng ta đã có thể bay ra để ứng
cứu và tác chiến rồi. Thậm chí, có đồng chí phi công thời đó sau này còn nói với
tôi là chỉ việc cho máy bay bay ra đảo, đơn giản chỉ cần bay thẳng thôi, không
cần bỏ bom thì quân chiếm đóng của Trung Quốc khi đó đã sợ “thần hồn nát thần
tính” rồi, vì khi đó quân đội Trung Quốc trang bị lạc hậu, không có gì là hiện
đại và thiện chiến cả.
Thế nhưng, chúng ta đã không làm được điều đó. Ở đây
cũng phải thấy là nó cũng có yếu tố lịch sử. Lúc bấy giờ là Liên Xô đang ở
ngưỡng của sự suy yếu, khủng hoảng, và bắt đầu “kiềng” Mỹ và cả Trung Quốc.
Nên sự ủng hộ của Liên Xô khi đó là không có.
Chính điều ấy đã tác động đến tư duy của những lãnh
đạo của ta khi đó, phải chịu những sức ép lớn khi đưa ra quyết định.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại
xâm để dựng nước và giữ nước, chúng ta đã từng hy sinh máu xương thậm chí còn
nhiều hơn thế để giữ nước mà chúng ta vẫn phải chấp nhận, 21 năm kiên trì chiến
đấu chống Mỹ cứu nước thì thêm sự hy sinh nữa để giữ biển, giữ đảo tại sao lại
không thể làm? Tại sao khi cần có sự sáng suốt để quyết định một việc liên quan
đến quốc gia, lãnh thổ mà chúng ta không làm được?
Cho nên đến tận bây giờ, thế hệ những người lính chúng
tôi cảm thấy rất có lỗi với tiền nhân. Các bậc tiền nhân đã giữ được biển đảo,
song cuối cùng chúng ta chỉ vì thiếu một quyết đoán sáng suốt mà đã để cho phần
đất đảo của mình rơi vào tay đối phương.
Phải kiên trì đấu tranh để đòi lại chủ quyền biển đảo
- Việt Nam cần phải làm gì để giành lại chủ quyền
biển, đảo mà Trung Quốc cưỡng chiếm trái phép, thưa ông?
Hoàng Sa là của Việt Nam, điều này không thể phủ định,
chối cãi. Chủ quyền đó không chỉ được khẳng định, xác nhận bằng máu xương của
người Việt mà còn được xác nhận bằng rất nhiều tư liệu, sử liệu của cả sử sách
nước ta từ thời nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn lẫn tư liệu của phương Tây, của người
Pháp ghi chép lại.
Việc Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa và sau này là
cưỡng chiếm đảo Gạc Ma năm 1988 là việc làm phi phạm, xâm phạm thô bạo vào chủ
quyền lãnh thổ, lãnh hải và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Đây là hành vi phải
lên án mạnh mẽ và không thể biện minh dù bằng bất cứ lý do nào.
Việc Trung Quốc cưỡng
chiếm Hoàng Sa và sau này là cưỡng chiếm đảo Gạc Ma năm 1988 là việc làm phi
phạm, xâm phạm thô bạo vào chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải và toàn vẹn lãnh thổ
của Việt Nam.
Thiếu tướng Lê Mã Lương
Hiện nay, chúng ta vẫn đang kiên trì thực hiện chính
sách đấu tranh, chủ yếu trên lĩnh vực ngoại giao để gây sức ép nhằm đòi lại
những đảo mà Trung Quốc đã chiếm của Việt Nam. Tất nhiên, đây là một cuộc đấu
tranh sẽ còn phức tạp, lâu dài và gian nan, song Việt Nam vẫn phải làm.
Phải kiên trì đấu tranh để đòi lại chủ quyền biển đảo.
Nói như đồng chí Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã từng có lần phát biểu là chúng ta
vẫn kiên trì, bởi nếu đời chúng ta không đòi được thì đời con cháu chúng ta sau
này sẽ đòi lại được.
Qua đó cho thấy, đây vẫn là một cuộc đấu tranh cam go
lẫn dài lâu, song Việt Nam vẫn phải kiên trì thực hiện.
- Thưa ông, trong bối cảnh quan hệ quốc tế có nhiều
diễn biến phức tạp như hiện nay, từ sự kiện đã xảy ra trong quá khứ như đã nói
ở trên, chúng ta rút ra bài học cốt tử gì?
Thứ nhất, vấn đề cốt tử ở đây chính là Việt Nam cần
phải luôn luôn tỉnh táo và sáng suốt để giữ vững chủ quyền của dân tộc, của đất
nước mình. Cụ thể ở đây là Đảng và những nhà lãnh đạo, những người đưa ra những
chiến lược, sách lược có liên quan trực tiếp đến vận mệnh của cả quốc gia, dân
tộc.
Thứ hai là trong quan hệ quốc tế, bất cứ hoàn cảnh nào
cũng phải phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc mình lên trên hết. Phải lấy lợi
ích quốc gia, dân tộc mình làm trọng, là tiêu chí đầu tiên trong mọi mối quan
hệ.
Thực tế trong quan hệ ngoại giao cho thấy đã có rất
nhiều nước khác họ làm như thế rồi, và trong quá khứ, Việt Nam cũng đã tuân thủ
nguyên tắc này.
Lợi ích quốc gia dân tộc là lợi ích cốt lõi, là lợi
ích số một. Nếu không nghĩ đến lợi ích quốc gia, dân tộc thì mình còn bị ảnh
hưởng, còn bị thiệt thòi, mất mát rất nhiều trong một số mối quan hệ quốc tế.
Năm 2018 được dự báo tình hình thế giới và khu vực còn
diễn biến rất phức tạp, có những sự kiện sẽ tác động trực tiếp đến Việt Nam.
Bối cảnh đó đòi hỏi chúng ta càng phải kiên định mục tiêu lợi ích cốt lõi của
mình.
Thứ ba là, chúng ta cần phải phát huy nội lực của
chính mình, phải nâng cao nội lực của mình lên thì mới có sức đề kháng trước
các âm mưu của ngoại bang, của thế lực thù địch bên ngoài hòng can thiệp, phá
hoại chúng ta.
Người Việt cần phải thể hiện được bản sắc của mình
trong các vấn đề quốc tế, cần có sự kiên định và kiên trì. Nên dù đa phương
hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ ngoại giao, song cũng đừng quên đi tự lực cánh
sinh là rất quan trọng, chỉ có tự lực cánh sinh thì Việt Nam mới đảm bảo được
lợi ích cốt lõi và giữ vững được độc lập, chủ quyền của mình.
- Xin trân trọng cảm ơn ông.
(Thực hiện)
Lưu Thủy 74 Tử sĩ Hoàng Sa 19/1/1974