NGỤY TẠO CHỨNG CỨ
BUỘC TỘI BẰNG CÁCH
"BÔI XÓA, SỬA
ĐỔI, VIẾT THÊM" VÀO VĂN BẢN
Bài của Nguyễn Ngọc Lanh.
Nguyên GS đại học Y Hà Nội
I. KHÔNG NGẪU NHIÊN MÀ VỤ ÁN BỊ ĐỔI TÊN
Ngay từ đầu, khi thấy tên BS Hoàng Công Lương chính
thức có trong danh sách ba bị cáo, các ý kiến phản đối từ ngành y tế đã loang
nhanh ra xã hội. Dư luận chung cho rằng nhân vật này bị oan, bị ức. Do vậy,
không phải bỗng dưng mà giới báo chí gọi vụ án này là "vụ án Hoàng Công
Lương" mặc dù ngoài BS Lương còn có tới 6 bị cáo khác. Cũng không phải
tình cờ mà trong thời gian ngắn có mấy chục ngàn chữ ký đòi xử "vô
tội" cho nhân vật này. Và cũng không phải ngẫu nhiên nốt, khi ông trở
thành "nhân
vật nổi tiếng"...
Có lẽ, ban đầu có suy nghĩ rằng một thảm họa y tế lớn
dường ấy (9 tử vong ngay tại nơi điều trị) mà chỉ có 2 người bị truy tố, cả hai
lại không thuộc ngành Y... thì chưa đủ. Phải tìm thêm bị cáo để thể hiện
"không bỏ sót tội phạm" và sự nghiêm minh của pháp luật. BS Lương
được đưa vào danh sách bị cáo - ngoài nguyên nhân này - có lẽ còn do cấp trên
của ông muốn né tội, bèn "thí tốt" (?)
Thấy được mối nguy lơ lửng trên đầu BS Hoàng Công
Lương, đã có tới 10 vị luật sư sẵn sàng bào chữa miễn phí cho ông. Quả nhiên,
cho dù lập luận của công tố viên đã bị bác bỏ trong tranh tụng công khai, nhưng
Hội Đồng xét xử ở phiên sơ thẩm vẫn tuyên BS Hoàng Công Lương cái án 42 tháng
tù giam. Bởi vậy, dư luận rất có cơ sở cho rằng bản án sẽ tuyên "kỳ
được", dù rất thiếu vắng công lý. Cứ tưởng kết án nặng BS Lương sẽ được dư
luận đồng tình; nhưng ngược lại. Ngay thân nhân của các nạn nhân cũng bênh vực
BS Lương.
II. "BỘ BA" BỊ CÁO Ở PHIÊN SƠ THẨM 1
Thảm kịch xảy ra tháng 5-2017. Ba người bị khởi tố là
Bùi Mạnh Quốc, Trần Văn Sơn và Hoàng Công Lương. Điều tra cả năm trời, tốn công
nhất là tìm chứng cứ buộc tội BS Hoàng Công Lương, do vậy tới tận tháng 5 năm
sau (2018) mới mở được phiên sơ thẩm.
Vụ án khá đơn giản, nhưng bị phức tạp hóa mà nguyên
nhân được cho là do quan điểm, cách thức và trình độ xét xử.
1. Ông Bùi Mạnh Quốc
chuyên sửa chữa và bảo dưỡng hệ thống lọc nước RO (sản xuất nước tinh khiết
dành cho "chạy thận"). Với 12 năm kinh nghiệm, ông có thể sống bằng
nghề. Hai hệ thống RO1 và RO2 của bệnh viện tỉnh Hòa Bình vẫn thường do một tay
ông Quốc chăm sóc, bảo dưỡng. Đã vài chục lần ông hành nghề ở bệnh viện này,
rất được tín nhiệm vì đem lại kết quả tốt đẹp. Nhưng lần này thì ông thất bại.
Cụ thể sự việc là ngày 25-5-2017 công ty Thiên Sơn ký
với bệnh viện một hợp đồng "béo bở" giá 100 triệu mà công việc vẫn
chỉ là sửa chữa và bảo dưỡng hệ RO2, tuy có thêm 2 việc mới, nhưng tốn thêm rất
ít công sức và tiền bạc: a) thay mới 2 trong số 4 màng lọc cũ - giá 12-15
triệu; b) gửi thành phẩm đi làm xét nghiệm AAMI (đánh giá mức độ tuyệt hảo của
nước lọc), giá 3-4 triệu.
Cũng ngày 25-5-2017 Thiên Sơn thuê ông Quốc làm toàn
bộ các công việc với giá 50 triệu. Chỉ ba ngày sau, tức 28-5-2017 (chủ nhật)
ông Quốc đã có mặt và thực hiện xong công việc ngay chiều hôm đó. Ông báo ngay
cho ông Sơn, để ông Sơn kịp báo cho Đơn Nguyên thận nhân tạo cái tin: Sáng mai
(thứ Hai, 29-5) có thể chạy thận theo đúng lịch đã xếp. Hôm sau, BS Lương ra y
lệnh "chạy thận", thảm họa đã xảy ra. Trước tòa, ông Quốc nhận tội,
chỉ xin được lượng thứ vì sự sơ suất của mình khi sửa chữa
2. Ông Trần Văn Sơn là
kỹ thuật viên của Phòng Vật Tư, có nhiệm vụ tìm hiểu mức độ hư hỏng của các
thiết bị cần sửa chữa; sau đó đề xuất những vật tư nào cần thay thế, để cấp
trên dựa vào đó, cho "trúng thầu" nơi nào báo giá thấp nhất. Cụ thể,
trường hợp này, thiết bị hư hỏng là hệ thống RO2 do Cty Thiên Sơn trúng thầu,
thuê ông Quốc thực hiện cả gói thầu (như nói trên). Cuối cùng, ông Sơn phải đối
chiếu các vật tư (do ông Quốc mang đến) có đúng với chủng loại và giá đã báo
hay không. Ngoài ra, ông không đủ trình độ giám sát kỹ thuật mà ông Quốc thực
hiện (với những bí quyết nghề nghiệp riêng). Khi ông Quốc sửa xong, ông nhận
bàn giao; sau đó chính thức thông báo để Đơn Nguyên thận nhân tạo biết "đã
có đủ nước tinh khiết chạy thận".
Trước tòa, ông Sơn nhận tội, chỉ thanh minh vài điều
và mong được khoan hồng.
3. Ông Hoàng Công
Lương chức danh chỉ là bác sĩ điều trị, giống như 2 đồng
nghiệp cùng chuyên khoa - nhưng ông Lương có tuổi nghề sớm hơn vài năm.
Trước tòa, ông Lương không nhận tội, cho rằng ông chỉ
ra y lệnh sau khi được báo chính thức "hệ RO2 đã sửa xong". Điều này
đã thành quy trình từ hàng chục năm nay, mà ông phải tuân theo. Bệnh nhân tử
vong không phải do y lệnh của ông, mà do acid tồn dư trong nước tinh khiết vì
sự sơ suất ngay từ khâu sửa chữa do ông Quốc đảm nhiệm.
Chứng cứ quan trọng để buộc tội BS Lương là cái cương
vị "phụ trách" mà đồng chí Trưởng Khoa tìm cách gán cho cấp dưới (tức
ông Lương). Dù rằng các đồng chí Điều Tra viên tiếp tục củng cố cái chứng cứ
(giả) này và các đồng chí ở VKS đưa nó vào hồ sơ; nhưng khi tranh luận tại tòa,
chứng cứ này bị các luật sư chứng minh là ngụy tạo (làm giả). Do vậy, Tòa chưa
thể tuyên án, mà tuyên bố "hoãn" xét xử để điều tra thêm. Thế là, vụ
án này có hai phiên sơ thẩm (1 và 2).
III. "BỘ BA" NÀO LÀ GÁN GHÉP hoặc LIÊN ĐỚI?
1.
Quốc - Sơn - Lương: Bị gán ghép thành "bộ ba"
Tại phiên sơ thẩm 1, tội danh của BS Hoàng Công Lương
là "thiếu trách nhiệm" gây hậu quả nghiêm trọng. Nhưng khi cái chức
danh "phụ trách" quàng lên đầu ông bị các luật sư tháo bỏ - trên đã
nói - thì (tại phiên sơ thẩm 2) VKS buộc phải đổi tội danh của BS Lương thành
"vô ý" gây chết người.
Tại cả hai phiên tòa, lập luận của công tố viên (đại
diện VKS) để buộc tội BS Lương (đại ý) là... Lương được xem như trấn giữ
cánh cửa cuối cùng ngăn chặn chất độc (acid) vào cơ thể bệnh nhân,
nhưng đã "vô ý"....
Như vậy, các cánh cửa trước đó (số 1 và số 2) đã được
VKS gán cho ông Bùi Mạnh Quốc và ông Trần Văn Sơn có nhiệm vụ canh giữ - và hai
ông này đã nhận tội. Vậy thì... nếu BS Lương không vô ý để ngỏ cánh cửa do mình
canh giữ, thảm họa sẽ không xảy ra. Quan điểm và lập luận này thoạt nhìn có vẻ
rất logic, nhưng thật ra là gán ghép rất khiên cưỡng, chỉ để thuyết phục mọi
người rằng: BS Lương phải nhận tội. Tại tòa, phía buộc tội đã phê phán BS Lương
là "chưa thành khẩn", "thiếu lương tâm"... Thật nực cười.
2.
Một "bộ ba" khác: Thật sự liên đới
Còn việc tạo chứng cứ giả, cũng do một "bộ
ba". Vậy, đây vẫn chỉ là sự gán ghép, hay thật sự có liên
đới, ràng buộc? Xin cứ đọc tiếp.
- Tại phiên sơ thẩm 1 (2018), chứng cứ giả là những
dòng ghi thêm (năm 2017, ngay sau thảm họa) vào Biên Bản họp khoa (từ 1 và 2
năm trước: 2016 và 2015) với hàm ý "BS Lương đã được đồng chí trưởng
khoa phân công "phụ trách" Đơn Nguyên thận nhân tạo". Tiếp
đó, sự bịa đặt này được các đồng chỉ điều tra viên khai thác, mở rộng, để nhảy
vào rất nhiều "bản khai" của các nhân viên y tế thuộc Đơn Nguyên thận
nhân tạo. Cuối cùng, các đồng chí ở VKS đã đưa chúng vào hồ sơ vụ án. Nếu đã có
một cương vị (phụ trách) mà không làm tròn, thì đó chính là tội "thiếu
trách nhiệm" gây hậu quả. BS Lương được gán tội danh đúng như vậy.
- Đến phiên sơ thẩm 2 (2019), cách nay 3 tháng, chứng
cứ mới - quan trọng nhất, để buộc tội BS Lương - cũng nhảy vào hồ sơ vụ án theo
cách cũ. Đó là cái Biên Bản Kiểm Tra tình trạng thiết bị được các đồng
chí cấp trên của BS Lương sửa chữa, xóa bớt và viết thêm (theo hướng bất lợi
cho BS Lương). Ấy vậy mà vẫn được các đồng chí điều tra viên coi là "chứng
cứ" và được các đồng chí ở VKS đưa vào hồ sơ. Hậu quả cũng vẫn như cũ: Nó
bị các luật sư bác bỏ ngay trước tòa. Luật sư Thúy Kiều - người phát hiện - gọi
đây là chứng cứ bị "chỉnh sửa". Trong lời phát biểu sau cùng
BS Lương mong Tòa - khi nghị án - hãy xem xét thấu đáo cái chứng cứ bị
"chỉnh sửa" này.
Dẫu sao, đến lần xử này Tòa buộc phải tuyên án (chả
lẽ, lại "hoãn"?). Sau 5 ngày nghị án, Tòa đã tuyên cái án 42 tháng tù
giam cho BS Lương - nghĩa là Tòa công nhận giá trị cái chứng cứ bị "chỉnh
sửa" này (!). Chả lẽ, 'bộ ba" nay thành "bộ tứ"?
IV. BÓC TÁCH CÁI CHỨNG CỨ "MỚI"
Để cãi vô tội cho BS Lương, không thể lập luận chung
chung và khiên cưỡng như phía kết tội đã làm, không thể viết kiến nghị hoặc gửi
"công văn" mà phải phân tích rất cặn kẽ cái chứng cứ buộc tội, đặng
vô hiệu hóa và sổ toẹt nó - theo đúng Luật.
1- Được
ngụy tạo để trở thành chứng cứ buộc tội
Chứng cứ "mới" quan trọng nhất (và có lẽ là
duy nhất) để buộc tội BS Lương chính là cái BIÊN BẢN KIỂM TRA TÌNH TRẠNG THIẾT
BỊ (nói trên) được lập ngày 20-4-2016 (nghĩa là cũ rích) nhưng được sửa
thành 2017 (cho gần với cái ngày xảy ra thảm họa). Bà luật sư Nguyễn Thị
Thúy Kiều đã dùng bút màu đánh dấu vào những chỗ bị "bôi xóa, sửa đổi,
viết thêm". Xin bạn đọc nhìn vào hình chụp để thấy nó bị chỉnh sửa
"khủng" tới mức nào (!).
Chính sự chỉnh sửa này nhằm giúp VKS viết ra những lời
lẽ buộc tội rất đanh thép cho BS Lương. Khởi đầu tội lỗi, theo quy chụp của
VKS, là việc BS Lương (thừa lệnh đồng chí Trưởng Khoa) "trực tiếp ký đề
xuất sửa chữa, khử trùng hệ thống nước RO". Bài này cần chứng
minh đây là sự bóp méo sự việc. Từ đó, sự suy diễn cứ tiếp tục cho đến khi BS
Lương (từ vô tội) "trở nên" có tội.
Dưới đây là ba dòng cô đọng trích ra từ Cáo Trạng (báo
chí đã đăng tải):
- Lương là
người trực tiếp ký đề xuất sửa chữa, do vậy, Lương biết
việc sửa chữa, khử trùng hệ thống nước RO.
- Tuy
nhiên, dù chưa nhận được bàn giao việc sửa chữa bằng văn bản và chưa
biết nguồn nước RO số 2 có đạt tiêu chuẩn hay không nhưng vẫn cho chạy
thận cho các bệnh nhân.
- Hành
vi của Lương đã thể hiện sự thiếu trách nhiệm, vi phạm nghiêm trọng quy định
về khám, chữa bệnh.
|
2. Tìm hiểu
"mẫu" văn bản: Nó dùng vào việc gì?
Mẫu văn bản là do Phòng Vật Tư soạn ra, được giám đốc
bệnh viện duyệt, nhờ vậy, được phép in sẵn nhiều bản, để dùng chung trong bệnh
viện Hòa Bình, mỗi khi có một thiết bị bị hư hỏng, cần sửa chữa lớn (cần chi
tiền, xuất tài khoản)... Xin bạn đọc đọc thêm các chữ in ở các mục I (Tình
trạng h hỏng) và II (Nguyên nhân hư hỏng) ở phía dưới. Nói khác, tên đầy
đủ của văn bản này phải là Biên Bản Kiểm Tra tình trạng hư hỏng của
thiết bị.
Để lập biên bản, phải có đủ 4 chữ ký phù hợp với cương
vị mỗi người - như mục I và II ở phần trên đã nêu rõ. Có hai cái tên được in
sẵn: Ông Trần Văn Thắng (cương vị Trưởng Phòng Vật Tư) và ông Trần Văn Sơn
(cương vị kỹ thuật viên được Trưởng phòng Vật Tư cử ra khám nghiệm thiết bị hư
hỏng). Điều này nói lên đây là nơi ban hành và chủ trì văn bản. Còn hai tên
khác được để trống (đầu tiên, với cương vị là người sử dụng thiết bị - ở
đây là Điều Dưỡng; và tiếp theo là Trưởng Khoa với cương vị là thay mặt đơn vị quản
lý thiết bị). Phải để trống hai cái tên này vì bệnh viện Hòa Bình có nhiều
Khoa, mỗi Khoa có nhiều thiết bị.
2- Quy trình ký
tên khi lập Biên Bản về tình trạng hư hỏng thiết bị
Đây nói tiếp về cái Biên Bản cụ thể mà bài này đưa
hình chụp của nó. Cũng là chứng cứ dùng để buộc tội BS Lương. Muốn sổ toẹt lập
luận hùng hồn của phía kết tội, phải phân tích rất kỹ cái Biên Bản mà họ dùng
để buộc tội.
a) Khi một thiết
bị hư hỏng - cụ thể, ở đây là hệ thống RO, thi người phát hiện đầu tiên (tất
nhiên) là người đang sử dụng nó. Đó là bà Nguyễn Thu Hằng.
b) Bà Hằng không
được phép thông báo (vượt cấp) lên "thẳng" phòng Vật Tư, mà phải báo
cáo với cấp trên trực tiếp của mình (trực tiếp, a-lô, hoặc mảnh giấy) tới ông
Trưởng khoa. Trường hợp này, BS Lương là người được ủy nhiệm. Với cương vị của
mình, vị trưởng khoa đã đưa cái tin "máy hỏng" (mảnh giấy, hoặc dùng
điện thoại) tới Phòng Vật Tư - nơi có nhiệm vụ sửa chữa.
Biên bản lập năm 2016 bị chữa thành 2017. Thay
thế và tẩy rửa cho RO1 bị sửa thành RO2. Số vật tư thay thế cũng bị sửa
đổi...
|
c) Được tin báo, vị Trưởng Phòng Vật Tư liền phái nhân
viên (trường hợp này là kỹ thuật viên Trần Văn Sơn) về Khoa, đem theo tờ
"mẫu" biên bản để lập biên bản sau khi chính tay ông khám nghiệm cỗ
máy RO. Không thể có chuyện "bỗng dưng" ông Sơn tới khoa để khám máy
do nổi hứng. Câu đầu tiên, ông hỏi: Máy hỏng thế nào (giống như BS hỏi bệnh
nhân để điền vào mục "lý do vào viện" khi bắt đầu lập bệnh án. Chính
cái "lý do vào viện" (ví dụ, ho lâu" đã giúp BS không khám miên
man mọi cơ quan, mà tập trung vào bộ máy Hô Hấp). BS Lương (hoặc Điều dưỡng
Hằng) đã trả lời: "nước ra yếu, không đủ sử dụng cho việc rửa quả
lọc thận". Ông Sơn đã ghi nguyên văn câu này vào Biên Bản - bạn đọc
rất dễ nhận ra. Nhờ vậy, ông Sơn không khám "miên man" toàn cơ thể cỗ
máy, mà tập trung vào một số bộ phận. Phát hiện được gì, ông ghi vào mục II.
Nguyên nhân hư hỏng. Đó là bán tắc màng lọc và hở van (gây thất thoát nước)...
Ông Sơn mời bà Hằng, BS Lương ký vào Biên Bản, rồi ông
ký tiếp.
d) Phải có
đủ 3 chữ ký, ông Trần Văn Thắng mới ký cuối cùng (chốt).
e) Phải đủ
4 chữ ký, giám đốc bệnh viện mới coi Biên Bản là hợp lệ, mới "xem xét và
duyệt ngân khoản sửa chữa".
3. Biên
Bản này liên quan tiền nong
Tóm lại, đây là cái Biên Bản phải lập đúng quy trình,
chặt chẽ, vì liên quan tài chính. Quyền BS trưởng khoa rất oai, nhưng chỉ trong
nội bộ khoa, còn trong sửa chữa thiết bị thì ông không oai hơn kỹ thuật viên,
mà là kém. Trong việc xuất tài khoản (để sửa máy) ông càng ở khâu rất thấp. Ông
chỉ biết tình trạng máy hư hỏng ở cái mức "nước ra yếu", mà mù tịt về
nguyên nhân và cụ thể cách khắc phục ra sao.
4. Câu hỏi
dành cho phía buộc tội
Quý vị viết ra câu đầu tiên để buộc tội (Lương
là người trực tiếp ký đề xuất sửa chữa, do vậy, Lương biết việc
sửa chữa, khử trùng hệ thống nước RO) (ở trên) liệu có
đúng? Nếu câu này sai về bản chất, thì các câu duy diễn sau đó thế nào?
Quốc Hội VN đã đưa vào Luật Hình Sự 2015 cái điều Suy
Đoán vô tội, tức là trước một bằng chứng phân vân giữa "có tội" và
"vô tội" thì phải suy đoán có lợi cho bị cáo. Ngay tại tòa, các luật
sư đã cảnh báo và phê phán VKS chỉ toàn suy đoán "có tội" mà chưa lần
nào suy đoán "vô tội". Cũng đáng ái ngại cho vị công tố viên - trình
độ thấp chỉ là một phần - mà là trong tay các vị không có chứng cứ buộc tội,
thậm chí phải ngụy tạo chứng cứ. Hãy sửa đối quan điểm (từ 101% suy đoán có tội
hãy cố trau dồi để trong tâm can có 1% suy đoán vô tội) lập tức các vi đủ can
đảm và lương tâm tuyên vô tội cho BS Lương.
Bài viết đầy đủ hơn: Bài 11, trong trang
nghiencuulichsu.com
Bài tham khảo:
https://hopecom.org/petition/kien-nghi-ung-ho-bac-si-hoang-cong-luong-vo-toi/
BS Hoàng Công Lương trước và sau 2 tuần bị tạm giam |
Bảng (Tham khảo)
Sự đối xử nghiệt ngã với BS Hoàng Công Lương
Mức án do Viện Kiểm Sát đề nghị (sơ thẩm 1)
Bị cáo
|
Sơ thẩm 1
Mức án đề nghị
|
Kết quả
|
Bùi Mạnh Quốc
|
60-72 tháng (tù giam)
|
Chưa
tuyên án
Trả
hồ sơ, điều tra lại
(thêm
4 bị cáo)
|
Trần Văn Sơn
|
48-60 tháng (tù giam)
|
|
Hoàng Công Lương
|
30-36 tháng (án treo)
|
Mức án do VKS đề nghị và do tòa sơ thẩm (lần 2) tuyên
Bị cáo
|
Sơ thẩm 2
Mức đề nghị
|
Sơ thẩm 2
Án chính thức
|
Nhận xét
|
Bùi Mạnh Quốc
|
48-60 tháng
|
54 tháng
|
Mức trung bình cộng
|
Trần Văn Sơn
|
42-48 tháng
|
42 tháng
|
Mức án thấp nhất
|
Hoàng Công Lương
|
36-42
tháng
|
42 tháng
|
Mức án cao nhất
|
Trần Văn Thắng
|
36-42 tháng
|
36 tháng
|
Mức án thấp nhất
|
Hoàng Đình Khiếu
|
36-42 tháng
|
36 tháng
|
Mức án thấp nhất
|
Đỗ Anh Tuấn
|
36-42 tháng
|
30
tháng
|
Mức án thấp nhất
|
Trương Quý Dương
|
30-36 tháng
|
30 tháng
|
Mức án thấp nhất
|
Bài của Nguyễn Ngọc Lanh (1935)
Nguyên GS đại học Y Hà Nội