(Chữ nghiêng là trích dẫn)
Tôi là Đào văn Tùng, vợ tôi là Liên thị Hoài Thu, cả hai chúng tôi đều tham gia kháng chiến “mút mùa Lệ Thủy”, đã nghỉ hưu. Tôi thương binh mất sức 71%, vợ tôi (bà Thu) bị bịnh ung thư, cả hai sình lên sộp xuống, sống dở chết dở, đang ở tại ngôi nhà cấp 4, có diện tích xây dựng 52m2 mang số 13 đường Lê văn Duyệt, Phường 1, TP.Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
Chúng tôi đang đau về thể xác và khổ về tinh thần. Vết thương do chiến tranh hay bịnh tật tuy đau về thể xác nhưng không bằng nỗi khổ về tinh thần. Nhà chúng tôi luôn bị xâm hại suốt thời gian dài, cáo báo không biết bao nhiêu lần mà không được nhà cầm quyền giải quyết. Khi quá sức chịu đựng, chúng tôi kiện ra tòa, tòa án các cấp xử chúng tôi thua kiện từ cấp Sơ thẩm, Phúc thẩm đến Giám đốc thẩm (Tối cao). Có câu “sống cái nhà, chết cái mồ”, chết không chỗ chôn là chắc rồi, còn sống đã và đang không yên nhà. Xin kể qua để mọi người hiểu phần nào nỗi oan ức, sự khổ đau mà chúng tôi phải chịu đựng trong ngôi nhà cấp 4 qua nhiều thập kỷ. Để, nếu mọi người không thương cảm thì thôi, xin đừng chế giễu khiến chúng tôi thêm khổ tâm.
Số là:
Sau 30/4/1975, trong chiến dịch “Cải tạo Tư sản Mại bản” (X.2), hai nhà 13 và 15 đường Lê văn Duyệt, Phường 1, TP Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang nằm trong diện bị tịch thu. Tuy nguồn gốc 2 nhà nầy là một chủ, nhưng nhà 15 là tiệm vàng Hữu Danh do bà Võ thị Chính làm chủ, nhà 13 nghe nói là tiệm Cầm đồ do con bà Chính làm chủ, người nầy đã chạy sang Mỹ trước 30/4/1975.
Hai nhà 13 và 15 liên cư, xây dựng cùng thời, cấu trúc giống hệt nhau gồm 1 trệt, một lầu, nóc bằng (bê-tông). Hai nhà chỉ có 1 cầu thang lên sân thượng nằm bên phía nhà 15. Miệng cầu thang lên sân thượng có mái che mưa nắng đơn sơ, lợp tole.
Sau khi bị tịch thu, 2 nhà nầy Ủy ban Nhân dân tỉnh Tiền Giang giao cho Ban Tuyên Huấn Tỉnh làm nhà tập thể. Đầu năm 1980, nhà 13 giao cho hộ Đào văn Tùng (tôi) và nhà 15 giao cho hộ Trần văn Mai thuê để ở.
Sau thời gian ngắn, hộ anh Mai tạo được nơi ở khác, trả nhà 15 lại cho Ban Tuyên Huấn Tình quản lý (đóng cửa). Có lẽ thấy bà Võ thị Chính và đứa cháu nội gái không có chỗ ở ổn định, UBND Tỉnh thương tình, cho bà Chính về ở tạm nhà số 15 vốn là tiệm vàng Hữu Danh của bà trước đây.
Ngày 8/12/1980, Ty Nhà đất + đại diện Ban Tuyên Huấn + bà Võ thị Chính ký biên bản bàn giao nhà số 15 và lại giao luôn lầu 1 và sân thượng nhà số 13 cho bên 15. Do giấy cho thuê nhà không ghi thời hạn, hơn nữa, hộ nhà 13 chúng tôi có đến 5 người, không thể sống ở phần trệt nhà 13 với diện tích chỉ 52m2 - nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, cầu thang chiếm hết phân nửa diện tích. Thử hỏi 5 người làm sao có thể sống được với diện tích chỉ 26m2?!. Vì lẽ đó, hộ 13 chúng tôi khiếu nại và cương quyết không giao lầu 1 và sân thượng nhà 13 cho bên nhà 15 theo biên bản vừa nói. Thế rồi, bà Chính cho xây bít cửa qua lại giữa 2 nhà, từ đó gia đình tôi không thể lên sân thượng nhà 13 được nữa.
Ngày 19/9/1981, UBND Tỉnh họp bàn và tuyên bố hủy bỏ biên bản ngày 8/12/1980 giữa Ty Nhà đất + Ban Tuyên Huấn + bà Võ thị Chính (như nói phần trên) với lý do: ba đương sự nầy: “Lạm quyền và giao nhà chồng chéo như thế là trái nguyên tắc xây dựng”. Sau đó, UBND Tỉnh ra quyết định mang số 905/QĐUB, được xem như “Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất” cho nhà 15 với nội dung: “Nhà 15 gồm chỉ 1 trệt, 1 lầu và sân thượng thuộc phía nhà 15”.
Nhiều lần UBND Tỉnh gợi ý hóa giá nhà 13 cho chúng tôi, nhưng chúng tôi không chấp nhận vì chưa giải quyết dứt khoát sân thượng nhà số 13 do bên 15 còn đang tạm dụng. Thế là UBND Tỉnh tiếp tục cho chúng thuê nhà số 13 (không có sân thượng) ở suốt 18 năm (1980-1998).
Giữa năm 1998, UBND Tỉnh chỉ đạo Sở Xây dựng+Nhà đất phát mãi tất cả những nhà do Tỉnh quản lý đang cho thuê. Chúng tôi cũng không mua nhà 13 do chưa xử lý sân thượng như đã nói.
Đến Ngày 12/10/1998, UBND Tỉnh tổ chức cuộc họp với những ngành có liên quan và ông Nguyễn Hữu Bình (con trai bà Chính chủ hộ nhà 15) bàn phân định rách ròi giữa 2 nhà 13 và 15. Sau cuộc họp, UBND Tỉnh ra Công văn số 787/CVUB có dội dung cốt lõi như sau:
- Hủy biên bản ngày 8/12/1980 về việc giao căn nhà số 15 và lầu 1 với sân thượng nhà số 13 đường Lê văn Duyệt, Phường1, TP Mỹ Tho giữa Ban Tuyên Huấn+Ty quản lý Nhà đất + bà Võ thị Chính.
- Tiếp tục thực hiện nghiêm chỉnh quyết định 905/QĐUB ngày 19/9/1981 của UBND Tỉnh.
- Buộc ông Nguyễn Hữu Bình (con bà Chính) ngụ ở số 15 đường Lê văn Duyệt, Phướng1, TP Mỹ Tho phải hoàn trả lầu 1 và phần sân thượng căn nhà số 13 đường Lê văn Duyệt, Phường 1, TP Mỹ Tho để Nhà nước quản lý.
- Chấp thuận chuyển quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà số 13 đường Lê văn Duyệt, Phường1, TP Mỹ Tho (có 1 trệt, 1 lầu và sân thượng) cho bà Liên thị Hoài Thu đúng theo thủ tục quy định của Nhà nước, theo phương án 1 tại tờ trình số 444,TTr.XD ngày 25/12/1997 của sở Xây dựng.
Cuối Công văn 787, Ủy Ban Nhân dân Tỉnh chỉ đạo: “Nay UBND Tỉnh yêu cầu giám đốc Sở Xây dựng tổ chức thực hiện. Kết quả báo cáo UBND Tỉnh trước ngày 25/10/1998. (xem nguyên văn Công văn 787 gồm 2 trang đính kèm)
Chúng tôi chấp nhận mua nhà số 13 theo tinh thần Công văn 787 (đọc 4 kết luận gạch đầu dòng ở cuối trang 2 của Công văn 787 đã nói rõ).
Sau khi ra quyết định bán nhà, Ngày 26/12/1999, UBND tỉnh Tiền Giang cấp “Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sừ dụng đất” cho chúng tôi theo tinh thần, nội dung Công văn 787.
Thủ tục mua bán nhà 13 làm đầy đủ, tiền bạc thanh toán sòng phẳng. Chúng tôi mua nhà mà mình đã mướn ở suốt 18 năm qua, việc bàn giao chỉ về mặt giấy tờ. Có điều, khi bàn giao, phía bán chưa giao cái sân thượng, với lý do UBND Tỉnh chưa kịp buộc chủ hộ 15 giao sân thượng nhà 13 lại cho bên mua theo hợp đồng mua bán.
Sợ để kéo dài nguội lạnh khó giải quyết. Chúng tôi đến nêu vấn đề nầy với phó Chủ tịch UBND Tỉnh Đoàn văn Tâm – người ký giấy chứng nhận chủ quyền nhà-đất cho chúng tôi. Ông Tâm nói: “Chưa kịp bàn với chủ nhà 15 trả lại cái sân thượng cho nhà 13 theo Công văn 787. Ông yên tâm, chúng tôi sẽ buộc chủ nhà 15 giao lại cái sân thượng nhà 13 cho ông sau. Chẳng lẽ bán nhà mà không có nóc. Trong giấy chứng nhận nhà-đất cho ông, chúng tôi ghi rõ: 1 trệt, 2 lầu, mái BT(nóc bằng bê-tông). Chẳng lẽ bán nhà mà không có nóc, dưới nhìn lên gọi là trần nhà, lên trên gọi là sân thượng”. Ông Tâm, phó Chủ tịch UBND Tỉnh đương nhiệm thuộc cơ qua công quyền, lại là người ký quyết định bán nhà 13 cho chúng tôi, nói rạch ròi như thế chẳng lẽ không tin?.
Vận rủi lại đến, Chủ tịch UBND Tỉnh Ngô Quang Thọ qua đời đột ngột, phó chủ tịch Huỳnh Xuân Việt lên thay quyền, chỉ ít tháng sau, Việt cũng qua đời, còn phó chủ tịch Đoàn văn Tâm thì bịnh tâm thần lơ lơ lãng lãng. Trước tình cảnh như thế, chúng tôi không nỡ đòi hỏi giải quyết cái sân thượng, ép bụng chờ. Sau đó, hết chủ tịch Nguyễn Hữu Chí, chủ tịch Trần Thế Ngọc đến chủ tịch Nguyễn văn Khang, chúng tôi đều có kiến nghị “giao sân thượng nhà 13 cho chúng tôi theo hợp đồng mua bán”. Cả 3 ông chủ tịch nầy cứ hứa nhưng không giải quyết.
Tháng 8/2008 , chủ hộ nhà 15 Nguyễn Hữu Bình thuê thợ đến đập lan can để xây lầu 2 trên sân thượng cả 2 nhà 13 và 15. Tôi phản ứng, Bình chìa ra giấy chủ quyền mới (không phải 905 nói trên), do phó chủ tịch UBNT TP Mỹ Tho Mai Thanh Minh ký, nhà 15 sở hữu sân thượng cả 2 nhà (có cả bản vẽ mới).
Tôi đến hỏi Mai Thanh Minh: “Sao ký quyết định giao sân thượng nhà số 13 của chúng tôi cho bên 15 mà không hỏi ý kiến chúng tôi?.
Mai Thanh Minh nói: ”Tôi chấp hành lịnh của UBND Tỉnh, theo quyết định số 522/QĐUB do Trần Thanh Trung, phó chủ tịch UBND Tỉnh ký ngày 20/1/2006.
Tôi lại phải đến trung tâm Lưu trữ Tỉnh gặp giám đốc Võ Thanh Hữu hỏi và được sao cho bản quyết định 522 của UBND Tỉnh. Quyết định 522 ký ngày 20/1/2006, tức là sau 7 năm tính từ khi tôi mua nhà số 13 (26/12/1999). Trong quyết định 522 nầy, Trần Thanh Trung bật tín hiệu: “Cho phép nhà 15 hợp thức hóa sở hữu sân thượng nhà 13”. Đáng nói hơn, quyết định 522 nầy còn “phủ định tất cả các văn bản, giấy tờ trước đó trái với nó”.
Thử hỏi có trái lý, trái luật không: Tập thể Ủy ban Tỉnh các nhiệm kỳ trước (tiền nhiệm) họp bàn và ký Quyết định 905 quyết định“quyền nhà đất của nhà 15 gồm 1 trệt, 1 lầu và sân thượng thuộc phạm vi nhà ấy” và ký quyết định bán nhà 13 cho chúng tôi gồm “1 trệt, 1 lầu và sân thượng”. Giờ đây, 7 năm sau, cũng chính UBND Tỉnh (nhiệm kỳ sau), với lý do và tư cách gì mà ông Trần Thanh Trung, phó chủ tịch trực UBND Tỉnh lại tự ý ký quyết định 522 “cho phép nhà 15 hợp thức hóa sở hữu sân thượng nhà 13” của chúng tôi đã được ghi rõ trong giấy tờ mua bán giữa chúng tôi và UBND Tỉnh trước đó? Quyết định 522 “phủ định tất cả các văn bản, giấy tờ trước đó trái với nó”, có nghĩa là phủ định quyết định 905/QĐUB và phủ định tất cả quyết định, giấy chứng nhận chủ quyền nhà đất cũng do UBND Tình ký trước đó cho chúng tôi chớ còn gì nữa? Vô hình trung là chúng tôi chiếm dụng (ở lậu) căn nhà 13 nầy sao?!.
Từ đó, khiến chúng tôi nghi ngờ: Nếu ông Trung và ông Minh không nhận hối lộ từ nhà 15 cũng là quá non yếu về Pháp Luật. (Ông Trung và ông Minh mất chức sau đó không rõ lý do).
*
Khi biết rõ sự việc như thế, chúng tôi khiếu nại nhà bị xâm hại đến 3 cấp chính quyền Phường1, TP Mỹ Tho, Tỉnh Tiền Giang.
Chánh quyền TP Mỹ Tho và Tình Tiền Giang tiếp tục im lặng, chỉ có UBND Phường 1 phản ứng: Sau khi cho người đến quan sát hiện trường, Phường 1 mời chủ hộ hai nhà 13 và 15 đến phường dự cuộc họp gọi lả “hòa giải”. Phía chúng tôi không chấp nhận “hòa giải” và cũng không phiền trách gì đối với chủ hộ 15, chỉ yêu cầu: “UBND Tỉnh phải có nghĩa vụ thu hồi và giao sân thượng nhà 13 lại cho chúng tôi theo họp đồng mua bán đã ký kết”.
Cuộc họp nói tới nói lui một hồi, anh Hòa, phó Chủ tịch UBND Phường1 kết luận: “Chưa có giấy phép, ông Bình không được xây mới trên sân thượng. Nhà cũ, cơ quan nào cấp phép cho xây thêm trên tầng cao phải chịu trách nhiệm nếu có hậu quả xảy ra. Trước mắt, do đập trên sân thượng, nhà 13 bị dột thấm thấu, chủ hộ nhà 15 (ông Bình) phải khắc phục dột cho nhà 13”.
Nói thì nói vậy, vẫn theo kiểu quăng chài buông chốp, nhà 15 chẳng những không khắc phục dột cho nhà 13 mà, lợi dụng chúng tôi không thể lên sân thượng, sẵn thợ, chủ hộ nhà 15 âm thầm mở rộng diện và xây kiên cố nửa sân thượng về phía sau của cả 2 nhà, rồi từ đó về sau, nhà 15 không gọi sân thượng mà gọi là tầng 3 (lầu 3). Thế mà trong giấy tờ, UBND TP Mỹ Tho cũng gọi theo như thế.
Ủy Ban nhân dân Tỉnh và TP Mỹ Tho tiếp tục làm ngơ. Chờ mãi không được, chúng tôi lập 2 bộ hồ sơ có đủ chứng lý về việc mua bán nhà số 13 giữa chúng tô và UBND Tỉnh, gởi bảo đảm qua đường Bưu điện, cho đoàn đại biễu Quốc hội và Hội Đồng Nhân dân tỉnh Tiền Giang yêu cầu can thiệp. Suốt 3 tháng trời chờ đợi, cả 2 nơi đều không trả lời trả vốn gì cả, tôi trực tiếp đến trụ sở của 2 cơ quan dân cử nầy, cảnh sát không cho vô với lý do “không có giấy hẹn của 2 cơ quan dân cử nầy”.
Sức chịu đựng của chúng tôi đã hết hạn, phải kiện thôi – đó là quyết định sau cùng của chúng tôi. Thế là bên kiện là chúng tôi ( phía mua nhà), còn bên bị kiện là Ủy ban Nhân dân tỉnh Tiền Giang (phía bán nhà) không làm tròn nghĩa vụ.
Chúng tôi nhờ luật sư để góp phần tranh tụng, sau khi đọc hồ sơ, chẳng luật sư nào nhận đứng ra tranh luận trước tòa. Họ đều nói gần như giống nhau: “Qua hồ sơ vụ án, phần phải thuộc về nguyên cáo (anh), nhưng 90% là anh thua kiện do bên bị cáo là Ủy ban Nhân dân tỉnh. Tôi có thể cãi miễn phí cho anh nhưng vẫn không thay đổi được gì đâu, bởi vì lẽ phài nằm trong tay người có quyền, đôi khi tôi còn chuốc họa vào thân, xin anh thông cảm cho….”.
Dầu không có luật sư trợ giúp, chúng tôi vẫn khởi kiện theo trình tự:
1/ Chúng tôi gởi đơn kiện, được Tòa án Nhân dân TP Mỹ Tho nhận thụ lý vụ án. Họ bảo chúng tôi tạm đóng trước án phí 200.000 đồng, sau nầy ai thua kiện trả số tiền ấy – đóng thì đóng. Thế rồi, Tòa mời tới lui 3 lần mà không xét xử được vì vắng mặt bên bị cáo. Cuối cùng Tòa án Nhân dân TP Mỹ Tho chuyển vụ án lên Tòa án Nhân dân tỉnh Tiền Giang.
2/ Tòa án tỉnh Tiền Giang thụ lý vụ án, mời tới mời lui đến lần thứ 3 mới có cán bộ Sở Xây dựng+Nhà đất, đại diện UBND Tỉnh và con trai Nguyễn Hữu Bình đang làm việc ở Sở Xây dựng+Nhà đất Tỉnh tham dự với tư cách người có liên quan vụ án nầy.
Khi xét xử,Tòa không bám Công văn 787 mà cứ dựa vào biên bản bàn giao nhà 15 vào ngày 8/12/1980 giữa 3 bên Nhà đất + đại diện Ban Tuyên Huấn + bà Võ thị Chính như đã nói trên, vốn đã bị UBND Tỉnh phủ định. Ngoài chủ phiên Tòa, đại diện bên bị cáo và người có liên quan nói tràng giang đại hải nhưng không đi vào cốt lõi của vụ án, theo kiểu “lấy thịt đè người”. Chúng tôi – bên nguyên cáo, chỉ được nói gọn những gì Tòa hỏi và cho phép, vô hình trung, bên nguyên cáo trở thành như bị cáo. Sau bước “nghị án”, Tòa Tuyên: “Bên nguyên cáo kiện không có cơ sở…” (coi như thua kiện) phải nộp án phí 200.000 đồng- đóng thì đóng.
3/ Bên nguyên cáo chống án lên Tòa án Nhân dân Cấp cao ở TP HCM. Sau 2 lần hoản, lần thứ 3 mới xử .
Ảnh minh họa |
Phiên Tòa Phúc thẩm nầy còn khắc nghiệt hơn phiên Tòa Sơ thẩm cấp Tỉnh. Trong 1 buổi sáng mà xử đến 3 vụ án (người dự mỗi vụ ngồi một cụm trong cùng chung hội trường, âm thanh không rõ, tòa chạy đua về số lượng). Cũng như phiên Tòa Sơ thẩm, Tòa và đại diện bên bị cáo được ưu tiên phát biểu, còn bên nguyên cáo chỉ được trả lời những câu hỏi của Tòa. Mỗi khi nguyên cáo nói lọt ra ngoài câu hỏi của Tòa dầu chỉ một chút thôi thì bị tòa vỗ chài cắt ngay. Bên nguyên cáo như một tội phạm trước vành móng ngựa.
Trước khi nghị án, đại diện Viện Kiểm sát đứng lên nói: “Đề nghị Tòa y án Sơ thâm”. Sau bước nghị án chừng 10 phút, Tòa án Cấp cao (Phúc thẩm) tuyên bố: “Y án Sơ thẩm…” (chúng tôi lại thua kiện). Tòa nầy cũng không quên nhắc chúng tôi về địa phương đóng án phí 200.000 đồng.
Buồn quá, lần nầy chúng tôi không thèm đóng án phí. Nhưng cũng ngộ, chẳng thấy ai đòi.
4/ Còn nước còn tát, chúng tôi tiếp tục kháng án lên Tòa án Nhân dân Tối cao với hy vọng “đèn trời” soi sáng.
Sau hơn 5 tháng chờ đợi, chúng tôi nhận được kết quả bằng thông báo số 166 của Tòa án Tối cao, có nội dung ngắn gọn, rõ ràng: “Xét thấy Tòa Phúc thẩm phán xét là xác đáng, Tòa Tối cao Y án Phúc thẩm, xin thông báo cho ông bà được biết”.
Chúng tôi đọc lại bản án Sơ thẩm, Phúc thẩm và Thông báo số 166 của Tòa án Tối cao thấy sao nó na ná với nhau – y án, y nội dung, chỉ khác nhau vê về cách trình bày, tất cả đều không đi sâu vào phần chính yếu thuộc bản chất của vụ án.
**
Trần và tường lầu 1 nhà 13 đã và đang dột thấm thấu như thế |
Một lần nữa, chủ nhà 15 Nguyễn Hữu Bình cho thợ đập để xây phủ kín phần còn lại (26m2) trên sân thượng nhà 13 của chúng tôi. Chúng tôi can ngăn, Nguyễn Hữu Bình, chủ nhà 15, chìa ra giấy phép do chủ tịch Phường1 An Hân ký.
Biết nói gì hơn, chúng tôi đến hỏi cô chủ tịch An Hân về chuyện cấp phép nầy, cô ấy nói: “Cháu biết chú đã thua kiện nên cháu mới ký cho ông Bình xây phủ kín phần còn lại sân thượng nhà 13 của chú”.
Tôi lý giải: “Trong văn bản, Tòa án các cấp đâu có nói cho phép nhà 15 được xây dựng mới phần còn lại của sân thượng nhà 13 ? . Dầu cấp nào, Tòa án nào… cũng không có đủ tư cách, đủ quyền cho xây mới trên tầng cao nhà cũ như thế ngoại trừ chuyên gia ngành Xây dựng. Nhà chú là nhà cấp 4, lực đỡ xuống cấp thậm tệ, trần nhà bị dột thấm thấu nghiêm trọng, ai cho xây phải làm tờ cam kết, phải có công chứng hẳn hoi, để rồi còn phải chịu trách nhiệm nếu có biến cố xảy ra…”.
Có lẽ do Chủ tịch An Hân can ngăn và rút lại giấy phép nên chủ nhà 15 ngưng xây kiên cố. Nhưng sau đó nhà 15 lại âm thầm làm mái che rộng ra phủ kín gần khắp sân thượng của cả 2 nhà để rồi làm cơ sở kiên cố hóa sau nầy – theo kiểu Trung Quốc chiếm bãi cạn rồi tôn tạo lấn dần quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Khổ nỗi, đập lần trước đã gây dột, giờ đây đập nữa càng dột thêm nhiều chỗ hơn, khi trời mưa, chúng tôi phải dùng phương tiện hứng nước những nơi dột, nếu mưa ban đêm phải thức canh hết ngủ !. (Thời gian sau, Chủ tịch Hân bị cách chức không rõ nguyên nhân)
***
Tôi thì thương binh mất sức 71%, trọng lượng chỉ còn 44 kg, ốm như cò ho lao, còn bà xã tôi hậu ung thư, sống nhờ thuốc, đi chậm như rùa. Chúng tôi đã khổ càng khổ khi phải đối phó với nhà dột thấm thấu từ sân thượng khi mưa.
Sau khi nghe tôi kể sự thất bại của mình trong vụ kiện nầy, ông bạn chí cốt của tôi cười khanh khách. Tôi hỏi:
- Sao lại cười trong đau khổ của người ta? – vô duyên.
- “Già đầu còn dại, có cháu ngoại còn ngu”- ông bạn tôi nói: “Bộ anh từ trên trời mới rơi xuống sao! Thời nay lẽ phải nằm trong tay người có quyền và có tiền – Con kiến mà đi kiện củ khoai . Ở nước ta ngày nay có khác chi xưa: “Bộ binh, Bộ hộ, Bộ hình, ba Bộ đồng tình bóp vú con tôi”. Vì thông cảm hoàn cảnh của anh chị, tôi tức cười chớ đâu phải vui cười, anh hiểu cho”.
Chỉ cần đọc qua hồ sơ của vụ án nầy, phía nào đúng hay sai rõ như ban ngày.
Có lẽ biết được vụ án oan sai nầy, ngoài ông Huỳnh Đức Minh, bí thư Thành ủy TP Mỹ Tho cử phó Văn phòng đến xem thực trạng và xin bộ hồ sơ nhà 13, còn có anh Hiền, đương nhiệm phó Ban Tuyên Giáo Tỉnh và anh Nha đương nhiệm phó Ban Nội Chính Tỉnh cũng đến hỏi xin, tôi cũng sao cho toàn bộ hồ sơ nhà 13. Tất cả đều nói với tôi: “sẽ trình báo với lãnh đạo tỉnh Tiền Giang xem xét giải quyết lại cho xác đáng vụ nầy”. Đến nay đã 10 năm cũng vẫn không nghe tăm hơi gì, nhưng dầu sao, động thái đó ít nhiều cũng an ủi phần nào về tinh thần đối với chúng tôi. Còn biết làm gì hơn, chúng tôi đành phải tiếp tục sống trong ngôi nhà ngột ngạt, chịu dột thấm thấu vào mùa mưa không biết đến khi nào, và không biết nó sụp đổ lúc nào!.
Ở Việt Nam ta đang có nghịch lý: Về pháp lý: Dân “đẻ” ra Quốc hội và Hội đồng Nhân dân; Quốc hội và Hội đồng Nhân “đẻ” ra Chính phủ và Ủy ban Nhân dân?. Vậy thì về vai vế: Chính phủ và Ủy ban Nhân dân là con của Quốc hội, Hội đồng Nhân dân và là cháu của Dân?. Thế mà Chính phủ và Ủy ban Nhân dân xem thường, hiếp đáp… Quốc hội, Hội đồng Nhân dân và Dân là những “nghịch tử, nghịch tôn, chẳng những trái với pháp lý mà còn trái cả về đạo lý ?.
Khi bè bạn đến thăm chơi, thấy cảnh sống của chúng tôi, biết làm gì hơn, họ chỉ an ủi cho chúng tôi vơi bớt nỗi buồn. Mỗi khi có ai an ủi, tôi nói vui cho qua: “Nêu mà thành quách vỡ tan, hãy bươi gạch vụn mà tìm xác ta” – Lời của Hoàng Diệu nói vói theo binh sĩ sau khi Ông ra lịnh bãi binh. Thế rồi, một mình Ông bám Thăng Long thành tử chiến.
Có câu: “Có rách áo mới thương người áo rách”. Xin những người áo lành, nếu không thông cảm thì thôi, đừng bươi móc khiến cho áo người rách thêm te tua.
Cố sống với môi sinh khắc nghiệt ! |
Chủ hộ nhà 13 Lê văn Duyệt, Phướng1,TP Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang
Liên thị Hoài Thu & Đào văn Tùng