13 janvier 2019

NGƯỢC NGUỒN CHỮ VIỆT (Kì 1 và 2)


Bút ký của Hoàng Minh Tường


Ghi nhớ Một trăm năm chữ Quốc Ngữ

(1919 – 2019)


*
Bút ký 



Các thành viên đoàn
Việt Nam trước mộ  
Alexandre de Rhodes
Hơn một nghìn năm Bắc thuộc, rồi các nhà nước phong kiến Việt Nam tự chủ từ Ngô Quyền xưng Vương năm 939, với sự xuất hiện của chữ Nôm, loại hình chữ Việt của tầng lớp trên biến thể từ chữ Hán, hầu hết các văn bản chính thống Quốc gia, các trước tác, văn bia, tàng thư lưu trữ…, cho đến năm 1919, đều dùng chữ Hán và chữ Nôm. Đọc được thứ chữ này chỉ có các nhà nho và quan lại, hơn chín mươi chín phần trăm dân cư mù chữ. Chỉ đến khi vua Khải Định ra đạo dụ ngày 26 tháng 11 năm Mậu Ngọ ( 28/12/1918) bãi bỏ các khoa thi lều chõng cử tử, đưa chữ Quốc ngữ vào nhà trường, chữ Việt hiện đại mới chính thức được phổ cập và phát triển trên toàn xứ sở.

Sự thần kỳ nào đã giúp người Việt thoát thứ chữ tượng hình hàng nghìn năm bao quấn tư duy và tự tôn dân tộc để có một hệ ký tự Latin hiện đại, để rồi một trăm năm qua khởi phát giao hòa đông tây, kết nối đồng bào, khuếch tán văn hóa với toàn nhân loại?

Hãy làm một cuộc ngược dòng, tìm đến nguồn cội của chữ Quốc ngữ.



I.                        MỘT ĐẤT NƯỚC KỲ BÍ



Đất nước Iran trông tựa như một chiếc lá phong bay phần phật giữa vùng Tây Á và Nam Á, kẹp giữa hai biển, phía bắc là Caspi ( Lý Hải), phía nam là vịnh Pecxich. Bay trên trời, tưởng tượng Airbus đang là chiếc thảm bay, từ Istanbul đến Teheran, nhìn xuống, chỉ thấy bao la một vùng cao nguyên khô cằn màu đất gan gà. Đi đường bộ dọc bắc nam từ bờ Caspi đến bờ vịnh Pecxich cũng điệp trùng những dải núi như được nung đốt thành sành gốm và mênh mông hoàng thổ. Hiếm hoi lắm mới gặp một vạt xanh. Đúng hơn là những chấm xanh.

Đất đai ấy, mà sao từ hơn ba ngàn năm trước đã tạo nên những đế chế của người Media và người Babylon cổ đại, để rồi đến thế kỷ thứ VII trước CN, hợp thành đế chế Achamenes của người Aryan với vua Syrus đại đế, tiền thân của đế quốc Ba Tư hùng mạnh về sau. Đất đai ấy mà thảng hoặc lại bắt gặp những thành quách đền đài, nơi bị thời gian vùi lấp, nơi hầu như còn nguyên vẹn, nguy nga tráng lệ. Và âm u trong gió, bảng lảng trong mây là những câu chuyện huyền hoặc của một nghìn lẻ một đêm và những tấm thảm bay kỳ ảo.

Giữa vùng hoang mạc khô cằn và kì bí ấy, tưởng rằng chẳng có gì dính líu đến nước Việt viễn đông xa xôi, nào ngờ có hai sự kiện mà hậu thế bây giờ mới giật mình.

Ấy là vào năm 1255, khi vó ngựa của Thành Cát Tư Hãn tiến qua vùng Trung Á, đế quốc Ba Tư bị khuất phục. Hulagu, cháu nội của Hốt Tất Liệt trở thành thái thú Ba Tư, lập tức thành lập đội quân viễn chinh người bản xứ, theo gót quân Nguyên Mông đi chinh phục thế giới. Ba lần quân Nguyên tiến đánh Đại Việt (1258, 1285 và 1287), hai lần sau đều có tướng Ô Mã Nhi. Ở cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ hai, thủy quân Ô Mã Nhi đã làm mưa làm gió vùng hạ lưu sông Hồng, sông Thái Bình, có lúc dồn đuổi thủy quân Trần Hưng Đạo về Vạn Kiếp, có lúc bao vây thành Thăng Long, truy sát vua tôi nhà Trần xuống Xuân Trường, khiến vua Trần lo lắng hỏi Trần Hưng Đạo có nên hàng giặc không? Và Hưng Đạo Vương đã nói câu bất hủ: “Nếu bệ hạ muốn hàng thì hãy chém đầu tôi đi đã”. Rồi Trần Hưng Đạo đưa thượng hoàng và vua về Ba Chẽ, Quảng Ninh để lừa giặc trước khi vòng vào xứ Thanh, thoát lưới vây bủa của Ô Mã Nhi, chờ lúc phản công, đuổi giặc ra khỏi bờ cõi. Những ngày nguy nan ấy, một loạt quan quân nhà Trần đã ra hàng giặc, như hoàng tử Trần Ích Tắc, hoàng thân Trần Lộng, Trần Kiên…

Cuộc xâm lược lần thứ ba, Ô Mã Nhi đã được phong chức Bình chương sự, cùng Phàn Tiếp dẫn thủy binh vào cửa Bạch Đằng. Và trận thủy chiến lừng danh nhất trong lịch sử quân sự nước Việt (và cả thế giới) đã được Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại vương dàn trận. Trước đó ở Vân Đồn, Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư đã tiêu diệt Trương Văn Hổ và toàn bộ hạm đội hậu cần tiếp viện. Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ cùng hơn bốn trăm chiến thuyền giặc lọt vào trận địa phục kích và bị đốt cháy. Phàn Tiếp bị giết, Ô Mã Nhi bị bắt sống. Trận đánh thần sầu ấy diễn ra vào tháng tư năm Mậu Tý, 1288.

Tướng Ô Mã Nhi này, phải chăng chính là Omar, người Ba Tư?

Nhà sử học Ba Tư nổi tiếng thế kỷ XIII là Fazi Allah Radsidud có thể đã đi trong đoàn quân ấy, đã biết Omar, hoặc được nghe kể, để rồi đã ghi lại trong sử biên niên về xứ Giao Chỉ (Kiafka) thời ấy: …“ Nước đó có những vùng khó đi lại và nhiều rừng cây… Nước đó có quốc vương riêng không thần phục Hãn (vua Mông Cổ). Con trai của Hãn là Thoát Hoan (Tugan)chỉ huy đội quân bảo vệ miền Manzi cũng như để ngăn ngừa và chống lại những ai không khuất phục. Một lần Tugan mang quân vào nước đó, chiếm lấy các thành thị ven biển và thống trị ở đây một tuần lễ. Nhưng bỗng nhiên từ biển, từ rừng, từ núi, xuất hiện những đội quân nước đó đánh tan đạo quân của Tugan đang lo cướp bóc. Tugan trốn thoát và lại về đóng ở Lukin Fu ( Nam Kinh)…

Đọc mà sướng âm ỉ. Ngay từ thế kỷ XIII chiến thắng của quân dân nhà Trần Đại Việt ta đã ngân vang trong sử sách Iran.



II. ĐI TÌM MỘ ALEXANDRE DE RHODES



Sự kiện thứ hai.

Bốn trăm năm sau, năm 1651, có một người từ Đại Việt ra đi, sau khi hoàn thành công trình vĩ đại: Bộ từ điển Việt - Bồ - La (Ditionarium Annamitium Lusitanum ed Latinum) cùng với tác phẩm “Phép giảng tám ngày”, và cho in tại Roma, đã được Giáo hội cử đến Ba Tư truyền đạo và mất ở đó năm 1660. “ Phép giảng tám ngày” hiện còn một bản duy nhất, một báu vật, được lưu giữ tại nhà thờ Mằng Lăng, Phú Yên. Tác giả của hai công trình bất hủ đó là Linh mục Alexandre de Rhodes, một nhà Việt Nam học, nhà ngôn ngữ học, người đã góp phần quan trọng tạo ra chữ Việt hiện đại. Thông tin này mãi gần đây mới tìm thấy trong tàng thư của Tòa thánh Vatican. Báo chí Việt từ vài chục năm nay cũng chỉ đưa tin vậy thôi, chứ chưa người Việt nào biết đích xác mộ cha Alexandre de Rhodes ở đâu, hình thù thế nào, có ai khói hương chăm sóc?

Alexandre de Rhodes (A Lịch Sơn Đắc Lộ), sinh ngày 15/3/1591, gốc người Do Thái, sinh trưởng ở vùng Avignon, lãnh thổ Giáo Hoàng miền nam nước Pháp, học tại nhà tập Dòng Tên ở Roma. Ông giỏi thiên văn học, toán học, ngôn ngữ học. Năm 26 tuổi (1619), ông sang Nhật truyền giáo, rồi chuyển sang Ma Cao. Năm 1625 cùng bốn cha Dòng Tên cập cảng Hội An.

Trước đó, năm 1617, tại đây đã có một số giáo sĩ đến truyền đạo, đặc biệt có cha người Bồ Đào Nha Jean Francois Calixte de Pina, người đã hầu như thông thạo tiếng Việt để giảng đạo trực tiếp cho các con chiên. Cha Francois de Pina (1585 - 1625) sinh tại Guarda, Bồ Đào Nha, tốt nghiệp chủng viện Dòng Tên năm 1605, sang Nhật Bản, Ma Cao, rồi đến Đàng Trong năm 1617. Ông là giáo sĩ thông thạo tiếng Việt đầu tiên để giảng đạo cho con chiên bản xứ. Tại thư viện Quốc gia Bồ Đào Nha ở thủ đô Lisbon hiện còn giữ nhiều tài liệu về cha Francois de Pina. Đó là những trang ghi kí tự Latin đầu tiên về tiếng Việt được gửi từ xứ Đàng Trong về tòa thánh Vatican, kiểu chữ fantazi đẹp như các thợ chữ viết bằng khen. Lại nữa, trong các tài liệu ấy còn có phương pháp ký tự sáu thanh điệu tiếng Việt ( nặng, hỏi, ngã, không, huyền, sắc ) trên các khuông nhạc, từ cung trầm nhất cho đến cung bậc cao. Cuộc gặp giữa cha De Pina với cha De Rhodes rất ngắn ngủi, chỉ trong vài tháng đầu năm 1625, nhưng lại là một cuộc gặp bàn giao định mệnh. Chính cha Francisco de Pina đã truyền cách học và ghi tiếng Việt bằng chữ Latin cho cha De Rhodes. Sau cái chết vì vụ cứu nạn đắm tàu năm 1625 của cha De Pina, tất cả tài liệu chữ Việt thuở sơ khai đã được cha De Rhodes gìn giữ. Phải chăng, nếu cha De Pina không bị tử nạn, có thể chính ông là người đầu tiên soạn thảo bộ từ điển Việt - Bồ - La, hoặc là đồng tác giả với cha Alexandre des Rhodes?

Cùng với người thầy đầu tiên, Francisco de Pina, dạy tiếng Việt cho cha De Rhodes vào cái năm 1625 ấy, còn có một chú bé mười hai tuổi người bản địa.



“ Chỉ trong ba tuần, cậu đã dạy tôi các cung giọng của tiếng Việt và cách phát âm từng chữ, cậu hiểu được tất cả những gì tôi diễn đạt, đồng thời cậu học viết Latin và có thể giúp lễ. Sau đó cậu thành người trợ giảng loan báo tin mừng cho xứ sở…”

“ Mỗi ngày tôi hăm hở học tiếng Việt y như ngày xưa tôi học thiên văn học ở Roma. Và nhờ ơn Chúa giúp, chỉ trong vòng bốn tháng, tôi học biết đủ tiếng Việt để có thể giải tội, và sau sáu tháng tôi có thể giảng được bằng tiếng Việt…”

“… Khi tôi tới Nam Kỳ (Đàng Trong - HMT) và nghe người dân bản xứ nói, đặc biệt là phụ nữ, tôi có cảm tưởng mình đang nghe chim hót líu lo, và tôi đâm ngã lòng vì nghĩ rằng có lẽ không bao giờ mình học nói được ngôn ngữ như thế… Do đó tôi tự ép buộc mình phải dồn mọi khả năng để học cho được tiếng Việt.”



Những dòng nhật ký của linh mục Alexandre de Rhodes, ba trăm bẩy mươi năm trước, cho người sau hiểu rằng ông đã đến với nước Việt bởi một tình yêu dâng hiến, một sự xả thân công đức.

Cũng cần phải nói thêm rằng, trong các tài liệu công giáo ở Đàng Trong, có ghi lại một sự kiện quan trọng. Đó là sau cái chết của cha Francois de Pina vì vụ cứu tàu, Chúa Nguyễn đã kiên quyết trục xuất nhóm các giáo sĩ phương Tây. Đúng lúc đó, có một bàn tay Bồ Tát của người Việt chìa ra giúp đỡ. Đó là quan tuần phủ Quy Nhơn Trần Đức Hòa, người đã từng tiến cử Đào Duy Từ với chúa Sãi Vương. Với quyền lực và ảnh hưởng của mình, cộng với lòng nhân ái vô bờ, tầm viễn kiến về một ảnh hưởng văn hóa, ông đã giấu mấy vị linh mục mắt xanh, trong đó có cha Alexandre de Rhodes, trong nhân dân, trong đức tin và tình người rộng mở, để rồi những năm sau các giáo sĩ tiếp tục được sống, được hành đạo và góp phần đưa văn minh văn hóa phương Tây vào đất Việt. Alexandre de Rhodes sống ở Việt Nam tròn hai mươi năm, từ năm 1625 đến 1645, đã sáu lần bị các chúa Nguyễn trục xuất, nhưng sáu lần đều nhẫn nhịn, luồn trốn để ở lại. Đó là sự tận hiến vì đức tin vì đạo nghĩa với xứ sở này, chứ quyết không phải là một âm mưu thôn tính thực dân mà ai đó nếu cố tình gán ghép. Năm 1625, lần cuối cùng bị chúa Hiền Vương trục xuất, Alexandre de Rhodes trở về Roma với gia tài tiếng Việt tích lũy hai mươi năm, cùng với cuốn từ điển tiếng Việt của linh mục Gaspa do Amaral và cuốn từ điển tiếng Bồ của linh mục Antonio Barbosa, âm thầm đóng cửa phòng để miệt mài tạo nên kiệt tác Từ điển Viêt - Bồ - La. In xong cuốn đại từ điển đầu tiên cho người Việt, ông dâng lời khẩn cầu muốn được trở lại Đại Việt, nhưng giáo hội khuyên ông đến Isfahan, để tiếp tục công việc truyền đạo.

Isfahan bấy giờ đang là tân đô lộng lẫy của đế chế Ba Tư, triều đại Safavid, một triều đại dung hòa giữa các tôn giáo, đạo Hồi và đạo Kito cùng được song hành. Trong môi trường làm việc và truyền bá đức tin đạo Kito chắc dễ dàng hơn ở Đại Việt, nhưng có lẽ không phải là mảnh đất của Alexandre de Rhodes, nên chỉ năm năm sau ông buồn đau, bệnh tật và qua đời (1660). Các con chiên người Armenia đã an táng và khắc bia mộ ông trong nghĩa trang của dân tộc mình ở ngoại ô thành phố.

Ba trăm bẩy mươi tám năm qua, không một người Việt nào biết cha Alexandre de Rhodes đã nằm đó.

Cho tới một ngày…